Friday, August 8, 2025

03 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- Vô Minh duyên Hành- HT Sán Nhiên giảng ngày 30 tháng 11, 2024

 03 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- Vô Minh duyên Hành

 - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "03" - Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh


Vô Minh duyên Hành

TỔNG HỢP NỘI DUNG VÔ TỶ PHÁP

TẬP III: Chương VI-VII-VIII

TỔNG HỢP PHÂN TÍCH DUYÊN HỆ LIÊN QUAN TƯƠNG SINH MINH GIẢI

Trang 270 

Họa đồ có 3 phiền não luân 

Để hình 03 - 1.15



coi qua trang 271

Ghi chú:

          *  VM: Vô Minh (Avijjā) thuộc Phiền Não (PN)

          *  H: Hành (Saṅkhāra) thuộc Nghiệp Báo (NB)

          *  T: Thức (Viññāṇa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          *  DS: Danh Sắc (Nāmarūpa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * LX: Lục Xứ (Saḷāyatana) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * X: Xúc (Phasa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * T: Thọ (Vedanā) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * AD: Ái Dục (Taṇhā) thuộc Phiền Não (PN)

          * CT: Chấp Thủ (Upādāna) thuộc Phiền Não (PN)

          * NH: Nghiệp Hữu (Kammabhava) thuộc Nghiệp Báo (NB)

          * SH: Sinh Hữu (Uppattibhava) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * S: Sinh (Jāti) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * LT: Lão Tử (Jāramaraṇa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

-----------------------000------------------

Ba phiền não luân là gì ?

Thứ nhất là Vô Minh. 

kéo xuống thứ hai là Thủ là phiền não,

thứ ba là Ái Dục là phiền não. 

Tức là 3 Phiền Não đó là Vô Minh, Ái Dục, và Thủ. 

 Rồi 1 hoặc 2 Nghiệp Báo Luân là Nghiệp Hữu thuộc Nghiệp Báo

Cái thứ 3 là 7 hoặc 8 Quả Dị Thục Luân

Thức là Dị Thục Quả

Danh Sắc là Dị Thục Quả

Lục Xứ là Dị Thục Quả

Xúc là Dị Thục Quả

tới Sinh, Lão Tử là Dị Thục Quả.

Như vậy thì khi nói tới Nghiệp Báo Phiền Não, Dị Thục Quả mình biết nằm ở khoen nào của 12 khoen Liên Quan Tương Sinh.

Vô Minh là Phiền Não, không có Nghiệp Báo.

Nghiệp Báo là Hành.

Mình đọc ngược trở lại. 

"Chúng sanh già chết khổ sầu bởi do pháp lậu dẫn đầu là Vô Minh".

Thì Vô Minh là Phiền Não gây ra Nghiệp Báo, chứ không phải Nghiệp Báo tạo ra Vô Minh nếu đi suôi, còn đi ngược trở lại thì khác, bây giờ đang nói suôi Vô Minh duyên Hành thì Phiền Não nó gây ra. 

Thí dụ mình nói:  Ái Dục gây ra Phiền Não, Thủ gây Phiền Não, rồi bắt đầu mới tới Nghiệp Báo của nó là Hữu.

Phiền Não sinh ra Nghiệp Báo, Vô Minh duyên Hành.

Ái Dục sinh ra Nghiệp Báo, Ái Dục sinh ra Nghiệp Hữu.

Tất cả mình phải để ý, nó là cái key để mình nhìn Pháp. 

Sư đang nói Tiền Hữu Luân, Hậu Hữu Luân

khi nào Ái Dục khởi lên. Khi mình đang bị Phiền Não lên là chuẩn bị coi chừng, khi Phiền Não lên là sinh nghiệp, báo động liền.

Nghiệp Báo là đi sau Phiền Não, Phiền Não chừng nào là nghiệp Báo gây chừng nấy.

Pháp Hành của mình là mình phải nhìn thấy Pháp, và mình biết tu tập Pháp, chứ còn không thì mình mò mẫm không được, mình làm cái gì mình phải biết.  

Thì Phiền Não gây ra Nghiệp Báo, mà Nghiệp Báo để lại Quả Dị Thục, 3 cái đó liên đới nhau và nó tuần tự Pháp: Phiền Não sinh ra Nghiệp, Nghiệp sinh ra Dị Thục Quả.

Do đó, vậy mình không muốn có Nghiệp Báo này thì mình không tạo ra Nghiệp Báo này, mà không tạo Nghiệp Báo này mình đừng để bị Phiền Não.

Đi ngược trở lại mình không muốn Quả Báo này thì mình không tạo ra Nghiệp.

Khi mình mang thân người nữ mà mình thấy quả báo này là thân người nữ là do nghiệp nào ? Đó là bỏn xẻn, ganh tỵ, đố kỵ, đó là nghiệp của người nữ hay nghiệp báo bỏn xẻn ganh tỵ là do đâu ? Là do Phiền Não.

Nhìn người nữ thì có nghiệp của người nữ và có phiền não của họ.

Nhìn người nam thì có nghiệp của người nam và có phiền não của họ. 

Nhìn như vậy thôi. 

Nhìn việc thiện thì có nghiệp của thiện và nó có quả nghiệp báo của nó, nó có Phiền Não của nó, nó trong vòng khoen, người giàu người nghèo cũng vậy.

 Mình nhìn người giàu người nghèo cũng vậy, người trí người không có trí cũng vậy.

Thí dụ mình nhận ra mình là người nhị nhân thì đó là Quả Dị Thục, thì nghiệp nào và do phiền não nào mình tìm ra được.

Như vậy thì mình mới tìm ra Phiền Não có 3 là Vô Minh, Ái Dục, và Thủ. Ba Phiền Não tạo ra 2 Nghiệp Báo.

Nghiệp báo có 2 tạo ra 8 Dị Thục Quả.

Thì bây giờ mình coi Danh Sắc.  Con người mình có 2 thành phần là Danh và Sắc, đó là Quả Dị Thục, và bởi Nghiệp Báo gì ? và do Phiền Não gì ?

Mình không nói một cách rất là bừa bãi một cách rất là vô trí được, mình nói phải có nhân có quả có nguyên nhân gốc gác, nói có căn bản, chứ không nói ngang nói ngược, nói vô nhân vô quả là không được, cái đó mình là Vô Nhân Kiến.

Khi ta gặp Danh Sắc thì nó thuộc về Dị Thục Quả, mà Dị Thục Quả do Nghiệp Báo, mà Nghiệp Báo có do Phiền Não.

Có nhà văn viết: "Tôi lỡ sinh ra là vì sao xấu", thì đó là thuộc về Danh Sắc của người đó, thì người này không đổ thừa là do người mẹ người cha, không đổ thừa ai làm ra mình, mà là do Nghiệp Báo của mình và do Phiền Não của mình tạo ra con người mình và mình không trách ai được nữa.

Bây giờ đến Thọ.  Vui buồn khổ mộng mơ tư tưởng trong Thọ, đó là Dị Thục Quả, đó là Nghiệp Báo rồi Phiền Não.

 Đó là biết nhận khi nhìn vào biểu đồ.

Coi trong bản đồ cái Tiền Hữu Luân, Hậu Hữu Luân. Thì khi nói Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân có sự liên đới với nhau như thế nào.

Trang 273.

        Như vậy có năm Nhân thuộc về Thời Kỳ Quá Khứ, năm Dị Thục Quả thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại, năm Nhân thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại và năm Dị Thục Quả thuộc về Thời Kỳ Vị Lai.

        Vô Minh, Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu thì thuộc về Phiền Não Luân; một phần của Hữu được gọi là Nghiệp Hữu và Hành thì thuộc về Nghiệp Báo Luân; một phần còn lại của Hữu được gọi là Sinh Hữu thì thuộc về Dị Thục Quả Luân.  Như vậy cũng cần nên hiểu biết rằng có ba Vòng Luân Hồi; Vô Minh và Ái Dục là hai Căn Nguyên. Sự tận diệt những Căn Nguyên ấy thì sự Luân Hồi được chấm dứt.  Vô Minh được phát sinh và tiếp diễn tăng trưởng là do bởi các Lậu Hoặc, và luôn luôn bị bức bách do bởi Lão Mại Tử Vong.

         Như vậy vị Đại Tu Sĩ đã trình bày giải thích tình trạng rối rắm của những kiếp sống vô thủy và hệ lụy này ở trog ba Cõi Giới, dưới hình thức định lý Liên Quan Tương Sinh.

Trang 269

TỪ NGỮ GIẢI THÍCH

       1. Việc luân chuyển trong Tiền Hữu Luân (Pubbantabhavacakka - Bánh xe luân hồi trước xoay chuyển) có như vầy:

       .  Vô Minh (Avijja) làm Nhân - Hành (Saṅkhāra) làm Quả.

       .   Hành làm Nhân - Thức (Viññāṇa) làm Quả

       .   Thức làm Nhân - Danh Sắc (Nāmarūpa) làm Quả.

       .   Danh Sắc làm Nhân - Lục Xứ (Saḷāyatana) làm Quả.

       .   Lục Xứ làm Nhân - Xúc (Phasa) làm Quả.

       .   Xúc làm Nhân - Thọ (Vedanā) làm Quả.

       .   Thọ làm Nhân - Vô Minh làm Quả.

Bất luận khi nào Ái Dục khởi sinh lên bởi do nương vào Thọ làm Nhân thì ngay trong sát na ấy Vô Minh cũng cùng câu sinh với Ái Dục; chính vì thế một khi bánh xe luân hồi đã xoay đến Thọ rồi, thì mới xoay trở lại gặp Vô Minh và bắt đầu lại thêm lần nữa.

        2. Việc luân chuyển trong Hậu Hữu Luân (Aparantabhavacakka - Bánh xe luân hồi sau xoay chuyển) có như vầy:

        .  Ái dục (Taṇhā) làm Nhân - Chấp Thủ (Upādāna) làm Quả.

        .  Chấp Thủ làm Nhân - Nghiệp Hữu (Kammabhava) làm Quả.

        .  Nghiệp Hữu làm Nhân - Sinh (Jāti) làm Quả.

        .  Lão Mại Tử Vong (Jaramarapa) làm Nhân - Ái Dục làm Quả

------------------------------------------

Bất luận khi nào Ái Dục khởi sinh lên tới Thọ làm Nhân thì nó quay trở lại Vô Minh làm Quả, cái đó là Tiền Hữu Luân, nó xoay theo vòng tròn đó.

Tới Hậu Hữu Luân nó xoay từ Ái Dục xuống tới Lão Mại Tử Vong.

Vậy thì khi bất chợt mình nhìn về mình, hay bất chợt mình nhìn về người, mình thấy người đó đang có Ái Dục thì mình nhìn thấy nếu mà nhìn từ Ái Dục thì mình biết nó sẽ đi Hậu Hữu Luân nó đi như thế nào. Ái Dục không nằm trên Tiền Hữu Luân được, nó nằm trong Hậu Hữu Luân.

Thọ nằm trong Tiền Hữu Luân, mà Tiền Hữu Luân. Thọ là Quả của Xúc, nó là Nhân của Vô Minh. Đứng 2 góc mình thấy.


           Xúc      <-------- Thọ --------->    Vô Minh


Thọ là Quả, Xúc là Nhân, và Thọ trở lại làm Vô Minh (Tiền Hữu Luân) bất kỳ lúc nào trong tốc độ nào cũng vậy, trong đời sống hàng ngày cũng vậy, nếu mình lọt vô trong vòng khoen của Liên Quan Tương Sinh này mà mình không có Đại Thiện Tương Ưng Trí để thấy được, mình không bẻ gãy được. mình sẽ bị lầm theo tư kiến của mình hay tập khí kiết sử của mình, nên nó trở thành pháp lậu, nó trở lại luẩn quẩn, giống như con kiến lọt vào chén đường nó luẩn quẩn không đi ra khỏi chén đường.

Thọ là Quả của Xúc, nó là Nhân của Vô Minh.  Khi mình không có Đại Thiện Tương Ưng Trí mà mình đứng ở trong Thọ là rớt liền.  Nên lý do tại sao trong bài Satipaṭṭhāna bài Niệm Xứ  Đức Phật Ngài nêu Thọ là một trong Tứ Niệm. 

Nếu cô không học Paṭiccasamuppāda mình sẽ không hiểu tại sao Thọ chỉ là Tâm Sở thôi mà sao nó nằm trong Paṭiccasamuppāda.  

Nên cái đó quan trọng, mà nó nằm ở trong góc độ của Tiền Hữu Luân, nó quay vòng tròn trong đó, vừa Vô Minh xuống tới Thọ, quay trở lại Vô Minh xuống Thọ, Nhân Quả chứ nó chưa qua Ái.  Hậu Hữu Luân từ Ái, Hậu Hữu Luân là Nhân nó xuống tới Sinh Lão Bệnh Tử là Hậu Hữu Luân là khác nữa.

Khi đứng ở góc độ Thọ nó khác đi qua góc độ Ái Dục là bắt đầu mình qua  luân hồi là khác.

Quả do từ nơi Nghiệp, mà Nghiệp do từ nơi Phiền Não.

Thứ hai nữa Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân nó có ranh giới của nó và nó có quy trình của nó và nó có vòng xoay của nó chứ không lẫn lộn được, mình không nói theo tư kiến tập khí của mình được.

Sư chưa nói chi pháp Vô Minh có 8 bất tri, Hành có 6 hay 7 Sư sẽ nói trong phần chi tiết.

Bữa nay Sư muốn quí Phật tử nắm được 2 mối của Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân là một, thứ hai là nắm 3 bản đồ Nghiệp Báo sinh ra Phiền Não, Phiền Não sinh ra Quả Dị Thục.

Như vậy, khi một hành động về Nghiệp Báo qua 3 trường hợp, qua 3 thể loại như ta nói Thân, Ngữ, Ý.

Một hành động về Nghiệp Báo hiện bày qua Thân, Ngữ, Ý là một loại do bị tác động của Phiền Não.

Một hành động Nghiệp Báo qua Thân, Ngữ, Ý bị tác động bởi Nhân là Phiền Não và nó sẽ để lại cái Quả Dị Thục của cái Nghiệp Báo này.

Do đó 3 cái: 

Phiền Não

Nghiệp Báo

Quả Dị Thục.

Bất kỳ lúc nào mà quí Phật tử tư duy nó, hay kiểm soát nó, hay là tu tập nó, thì quí Phật tử thấy đâu cũng vậy. 

Thí dụ như thấy Phiền Não thì mình thấy vòng xoay của nó.

Hay, nếu thấy một cái Nghiệp Báo mình thấy vòng xoay của nó.

Hay, thấy Quả Dị thục thì mình thấy vòng xoay của nó.

Như vậy, khi ở trong khuôn của Quả Dị Thục, Quả Dị Thục có 8, mà trong khuôn của Quả Dị Thục thì phải cẩn thận, Quả Dị Thục này do Nghiệp Báo tác động hay là Nhân, rồi trong Nghiệp Nhân này là do tác động của Nghiệp của Phiền Não.

Mình tu tập là muốn bẻ gãy từ Nhân Quả, chứ không phải nói theo kiểu không có trí.

Quả Dị Thục mình không ngừng được, Quả Dị Thục mình muốn nó ngừng không cho nó trổ, mình không muốn đón nhận cái Quả này thì phải ngăn từ trên Nghiệp, mà muốn không có Nghiệp tạo ra thì phải ngăn nó từ Phiền Não.

Cũng vậy khi bất cứ người nào tới với mình, họ mang một Quả Dị Thục đến cho mình thì mình tìm ra được Nghiệp Báo và Quả Phiền Não của họ mình mới giải quyết ra được.

Đức Phật Ngài nhìn chúng sanh đến với Ngài với Quả Dị Thục và Ngài tìm được Nghiệp Báo khi nhìn được Phiền Não của họ.

Bậc Khīnāsavabala bậc lậu tận tức là bậc đó đã diệt trừ lậu hoặc, thì bậc Khīnāsavabala là bậc phải là Alahan, thứ 2 là Ngài phải đắc Lục Thông, tức là Lậu Tận Thông, còn 5 thông kia là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, thì cái đó là thông thường, nhưng bậc Khīnāsavabala phải là Alahan đắc Lậu Tận Thông.

Thì khi bậc Khīnāsavabala lậu tận thông họ mới nhìn thấy chúng sanh còn đang hữu lậu họ mới gỡ ra được.

 Khi Ngài Anurudha đắc Tam Quả mà hành không được Tứ Quả đến tâm sự với Ngài Trưởng Lão Sariputta thì Ngài Sariputta nhìn cái quả đó là quả Dị Thục gì, là do Nghiệp của Anurudha, rồi Phiền Não là gì ? Là Ngã Mạn, do đó không đắc đạo quả được.  Thì Ngài Anurudha trở về diệt ngã mạn và đêm đó Ngài đắc Alahan.

Cái ngã mạn là một phiền não, nó nuôi dưỡng ở trong ý nghiệp của người đó, do đó quả Dị Thục là nó chặn lại không cho trổ sanh, phải diệt phiền não đi, diệt ngã mạn thì không còn nghiệp báo trong ý nuôi dưỡng ngã mạn này thì mới ra khỏi

Học Liên Quan Tương Sinh phải biết hành để tu, chứ không phải đọc để mà biết để có trí thức.  Ở vị trí nào cũng tu được, ở vị trí nào cũng hành được, ở vị trí nào cũng bẻ gãy được, từng giai đoạn nó đi xuống luôn. 

Khi mình xác định được 3 cái Phiền Não, Nghiệp Báo, Quả Dị Thục, bắt đầu coi cái Luân là lập đi lập lại thì mình phải đi theo Luân đó mới tìm ra được, mới bẻ gãy cái đó được, chứ không đi từ Luân này bẻ Luân kia được.

Khi cảm Thọ tới  thì quay trở lại Vô Minh, còn nếu qua  Ái thì mình đi xuống Sinh, Lão, Bệnh, Tử.  Tử trở lên Ái thôi, chứ không qua Vô Minh lên tới Thọ. Mình phải biết quy trình đó mình mới bẻ được.

Mình đứng trong Tiền Hữu Luân thì phải đi trong qui đạo của Tiền Hữu Luân và phải bẻ Tiền Hữu Luân.  Mình đứng trong Hậu Hữu Luân, mình muốn bẻ thì bẻ Hậu Hữu Luân.

 Thí dụ, quí Phật tử đang đi ngoài đường, đi bộ nãy giờ nhiều quá giờ muốn ngồi nghỉ, hay mình chạy bộ, hay tập thể dục nhiều rồi ngồi nghỉ.  Thì mình coi trạng thái muốn ngồi nghỉ hay là thấy thân mình đang mệt mỏi, 2 cái đó nó khác nhau hay là giống nhau, mình phải coi trong Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân.

Như vậy thì khi ngồi xuống thì mình đang có cái Thọ hay là cái Ái.  Khi  ngồi xuống có Thọ thì mình trở lại Tiền Hữu Luân.  Mà cô ngồi xuống mà có Ái thì Hậu Hữu Luân.

 Như vậy thì khi đi bị mệt mình ngồi xuống mà có Ái thì phải Sinh, Lão, Bịnh, Tử là Nhân cho Ái này.  Nãy giờ đi mệt là Lão, thì Lão sinh ra Ái, chứ không nói qua Thọ.  Còn khi ngồi xuống rồi là cô hết biết rồi là mình hoan hỉ rồi mình trở lại Vô Minh vì mình thỏa mãn rồi. Thọ làm duyên cho Vô Minh.

Vậy thì khi đang Ái là Phiền Não đang lên, nó ra cái Nghiệp. 

Nếu Thọ sanh lên là Dị Thục Quả thì bắt đầu mình tìm Nghiệp Báo.

Tại sao có cái Thọ này ? là do Nghiệp Báo. Cái Nghiệp Báo này do đâu ? là do Phiền Não. Mình ra cái gốc.

Thọ khổ về thân, Thọ Ưu về tâm sân vì Nghiệp Báo của mình lúc nãy là thân hành là do đi nhiều quá, mà thân hành là do Phiền Não.

Ái là Phiền Não, nếu Ái là Phiền Não thì mình trở lại Tiền Hữu Luân. Lão Mại làm Nhân, Ái Dục làm Quả.

Trở lại trang 269 

Lão Mại Tử Vong (Jaramarapa) làm Nhân - Ái Dục làm Quả.  Đi mệt giờ muốn ngồi.

Nếu đứng trong bánh xe luân hồi, luân hồi là lập đi lập lại thì mình đứng ở khoen nào mình nói khoen đó, nếu đang ở Thọ thì mình đi vòng qua Tiền Hữu Luân.  Nếu có Ái thì đi qua Hậu Hữu Luân. Mình phải biết để mình bẻ gãy, để mình tu tập, Nhân nào Quả đó. 

Đức Phật Ngài nói bẻ gãy bánh xe luân hồi không nổi. 

Là mình không biết cách bẻ và mình không nhìn ra được bánh xe đó, bây giờ muốn nhìn vô bánh xe đó rồi mới biết cách bẻ nó thì mới ra được.

 Như Ngài Ananda sau khi ngồi thiền xong nói với Đức Phật là Pháp Liên Quan Tương Sinh dễ quá.

Xem trang 422 

Việc thẩm sát Liên Quan Tương Sinh của Trưởng Lão Ananda và lời giáo giới của Đức Phật.

Ngài Trưởng Lão Ananda nói - Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật là điều rất huyền diệu, là một điều rất đặc biệt, đã không từng hiện bày từ trước đây.  Kính bạch Thề Tôn, Ngài là bậc tiến hóa, Pháp Liên Quan Tương Sinh này đã hiện bày rõ ràng đối với con tương tự như rằng Pháp này rất là nông cạn vậy.

Đức Phật nói không phải. Theo lẽ thường nhiên, sự hiện hành của nước hiện hữu ở bốn thể loại, đó là:

1. Một vài nơi, khi đã trông thấy thì hiểu biết được là sâu thẳm; tuy nhiên sự thật thì chỉ cạn độ 2 - 3 hắc tay thôi. Chẳng hạn như nước ở trong hồ hoặc trong nương lại có lá cây rụng xuống, đã rã mục ở dưới đáy hồ hoặc đáy mương; và đã làm cho nước ấy hiện bày sắc màu xanh lam. Người trông thấy, thì sẽ hiểu biết rằng nước ở trong hồ, hoặc trong mương ấy rất sâu thẳm, tuy nhiên nếu như dò xem nông hay sâu, thì sẽ hiện bày là cạn hều.

2. Nước ở một vài nơi, khi đã trông thấy thì hiểu biết được là nông cạn; tuy nhiên sự thật thì rất sâu thẳm. Chẳng hạn như nước ở trong hồ, hoặc ở trong ao, trong suối; thì một vài nơi có sự trong vắt cho đến nỗi nhìn thấy được các sự vật hiện hữu ở đằng ấ một cách rõ ràng; và đã làm cho người trông thấy có sự hiểu biết rằng là cạn hều. Tuy nhiên noeesu như dò xem nông hay sâu, thì sẽ hiện bày là sâu thẳm.

3. Nước ở một vài nơi, khi đã trông thấy thì hiểu biết được là cạn hều, và sự thực nước trong chỗ đấy cũng có Thực Tính là cạn hều; chẳng hạn như nước ở trong cái lu, trong cái chậu, trong cái nồi, v.v.

4. Nước ở một vài nơi, khi đã trông thấy thì hiểu biết được là sâu thẳm; và sự thực nước ở trong chỗ đấy cũng có Thực Tính là sâu thẳm, chẳng hạn như nước ở trong đại dương hùng vĩ.

Trang 424.

 Nhưng mà nhờ Ananda có 4 phước báu nên hiểu mau: 

1. Kỳ Phúc Thị Giả (Upaṭṭhakaadhikāro): Là người đã từng kiến tạo Xả Thí, Trì Giới, Tu Tập; và rồi đã có sở nguyện vọng được làm Thị Giả Đức Phật.

2. Môn Đồ (Antevāsiko): Được làm người thân cận (môn đồ, đệ tử) với Bậc Đại Tôn Sư.

3. Thất Lai Giả (Sotāpanno): Đã thành tựu viên mãn Quả vị Thất Lai.

4. Đa Văn Giả (Bahussutadharo): Làm thành bậc đa văn quãng kiến.

Thì khi quí Phật tử biết Liên Quan Tương Sinh, biết tu, biết hành, biết bẻ pháp Liên Quan Tương Sinh thì nằm trong Đa Văn Giả, thứ hai nữa là môn đồ của Đức Phật, quí Phật tử có được 2 pháp trong 4 pháp.

Liên Quan Tương Sinh có kỹ thuật của nó, nó có phương pháp của nó, có kim chỉ nam của nó.

Khi nào mình có Phiền Não là mình có Nghiệp Báo, mà Phiền Não nó tạo ra, trong Nghiệp Báo nó có Quả mình phải đón nhận mình phải chịu.

Tham kích động Thân, Ngữ, Ý làm thì gặp quả báo.

Sân kích động Thân, Ngữ, Ý làm thì gặp quả báo.

Giờ mình nhìn Nghiệp Báo của mình, chứ không phải mình nhìn của người ta. Học Liên Quan Tương Sinh là để học cách tu.

Học Liên Quan Tương Sinh mình có văn sở thành tuệ, tư duy sở thành tuệ, tu tập sở thành tuệ, mình có tam tuệ; Văn, Tư, Tu.

 Bất luận mình đang ở trong Quả Dị Thục, bất luận mình ngồi trong nhà, ngồi trên xe hay trong lớp học này, mình có Quả rồi bắt đầu mình coi cái Nghiệp cái Quả của mình.

Thí dụ, mình đang đi có người xô mình té thì bắt chỗ té của mình xuống thì coi đó là Quả hay đó là cái Phiền Não. Nếu là Phiền Não thì coi chừng mình tạo ra Nghiệp.  Còn là Quả thì cho qua, thì không có gì xảy ra nữa.

Mình đang đi chợ rồi mình trợt chân té, nếu nó là Dị Thục Quả thì không có Phiền Não, còn nếu mình coi đó là một Phiền Não thì coi chừng có Nghiệp Báo. Nếu coi đó là Phiền Não rồi cô oan trái thì có Nghiệp Báo. 

Mình học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh là như vậy.

Nếu người tu họ chỉ nhìn thấy Dị Thục Quả thôi, còn người đời họ nhìn thấy đó là Phiền Não, mình không biết nên Vô Minh duyên Hành là vậy, có Nhân có Quả.

Nếu tới Thọ mà dừng lại thì mình trở lại Tiền Hữu Luân, mà mình bước qua Ái là phải qua Hậu Hữu Luân. Ái nhiều chừng nào thì mình đi xuống tới Sinh, Lão, Tử lẹ chừng nấy.

Bài học Satipaṭṭhāna là Niệm Xứ có 2 Pháp là Niệm và Tỉnh Giác,  mà mình không biết hành là mình chết, chết là vì thiếu Niệm, chết vì thiếu Tỉnh Giác.

Satipaṭṭhāna là tâm trong tâm, là Tâm trong Tâm mình hay là Tâm trong Tâm của nó đang sinh, mình chết là vì thiếu Niệm. Nếu tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí thì đó là Tâm trong Tâm mình chứ không đi ra ngoài.

Còn nếu Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí mà Tâm này mà có Tâm kia thì mình đang đi ra ngoài. Đại Thiện Tương Ưng Trí Tâm trong Tâm mình giữ Tâm của mình, chứ  nhìn Tâm ngoài là sai, thì cõ Na Cảnh rồi.

Thiền sinh hỏi: Khi mình có điều bất thiện ở trong tâm .

HT trả lời: Không được nghĩ tới điều bất thiện bất cứ lúc nào, mình phải diệt trừ ngay. Cô nói là cô có bất thiện trong tâm là cô sai rồi. Mình phải giữ tâm mình, giữ như là giữ đôi mắt của mình.

Satipaṭṭhāna là tâm trong tâm là không phải mình nhìn tâm khác. Tâm trong Tâm là Tâm của mình nhìn Tâm mình, rồi mình sửa mình tu Tâm mình là an toàn, không có Tâm nào nhìn ra ngoài.

Do đó, nếu cô có học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh thì tới Thọ là mình có một vòng Luân, mà mình qua Ái là qua vòng Luân khác, Ái chừng nào thì Lão Mại chừng nấy. Ái sinh ra Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Sinh, Lão, Bệnh, Tử duyên trở lại Ái.

Khi người cận tử lâm chung mà không có tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí họ có tâm tham ái đi tục sinh, tâm tham ái là đi thục sinh, tham ái nó vòng lại. Do đó, khi sai lầm là mình biết và phải diệt trừ nó.

Tất cả đều có Nhân Quả, Nhân nào thì Quả đó, mà vòng quay của nó, nên quí Phật tử bẻ gãy vòng luân hồi, mình nói Saṁsāra thì người học hỏi anh Tiền Hữu Luân hay Hậu Hữu Luân, anh muốn bẻ vòng luân hồi loại nào, thì bậc Khīnāsava bậc Lậu Tận người ta mới bẻ gốc cho mình.

 Khi nhìn đây là Quả Dị Thục thì ngưng, khi nhìn đây là một phiền não là  còn tạo tác nghiệp báo, và còn va chạm trong Nghiệp Báo này, còn đầy dẫy trong Quả Dị Thục mà Phiền Não lôi kéo.

Khi Thọ tới mình dừng lại nhìn cái Thọ đó, mình đang Thọ Ưu nhưng  đang tìm ra cái Ái, cái Thọ Ưu, nhưng mình không thấy Thọ Ưu của mình nằm ở trong cái già lão mà coi cái Thọ Ưu này là một cái Ái cô muốn thoát.

Khi mình tu mình không thấy phiền não đó là người trí mà mình nhìn thấy đó là cái quả mình sống trong Quả Dị Thục, 

Thân mình là Danh Sắc là Dị Thục Quả, mà ngay cả Lục Xứ 6 căn tiếp xúc 6 trần cũng là Dị Thục Quả, mà mình không chịu dừng trong khi nó là Dị Thục Quả mà mình không thấy nó là Dị Thục Quả mà mình sinh lên một cái Ái khi căn tiếp xúc trần sẽ ra Ái nó ra Phiền Não liền. 

Thọ dừng lại, Thọ Ưu cũng được, Thọ Khổ cũng được, nhưng đừng sinh Ái.

Quí Phật tử đọc lại cái bản đồ; Nhân hiện tại, Nhân quá khứ, cho Quả hiện tại, Nhân hiện tại cho Quả vị lai.

 Khi có cái Ái làm Nhân hiện tại thì Sinh Già Bệnh Chết là Quả vị lai.

Ái hiện tại đây, Ái giờ này, phút này mà Ái sinh thì giờ này tháng sau nó là vị lai. Vậy thì mình sống trong đây mình sống theo pháp Quả, mình là Danh Sắc, mình là Quả. Rồi có 6 căn; thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, ý là Quả. 

Có Xúc thì có Thọ mình ngừng, chứ mình qua Ái là mình đi xuống Sinh, Lão, Bệnh, Tử.  Ái là cái Phiền Não, nó lên Nghiệp Báo.

Trong mỗi sinh hoạt đều có Nghiệp Báo vì mình phóng dật, hai nữa là mình không biết tu không biết pháp, chứ mình biết pháp thì mình dừng, không biết tu thì tạo tác.

Vậy thì người ta hỏi; cô sống trong nghiệp báo để cô chịu Quả Dị Thục hay là cô sống trong Phiền Não để mà tạo tác Nghiệp Báo để mà phải trả Quả Báo này ? 

Nguyễn Du có câu thơ: "Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa", là mình sống trong Dị Thục Quả còn trách gì nữa.  Còn người không chuyên về Nghiệp Báo, cái Quả mình đang hưởng thì mình tạo ra Phiền Não, là Phiền Não đó mình chuốc vô, mình mang vô và mình lãnh.

Ngay cả con đường Đạo Quả là ekāyano maggo là con đường duy nhất, một mình ra đi không ai song hành với mình, mình tu mình chứng.

Một ngày, một giờ, một phút, một giây mà quí Phật tử đang sống, trong pháp hành, trong pháp tu, hay trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, thì mình sống ở đây cái Niệm của mình, cái Tỉnh Giác của mình là mình sống ở trong cái gì ? 

Câu trả lời là : Sống trong Chánh Niệm

Học Liên Quan Tương Sinh nó hay nhưng phải hiểu, hay ở cái tu chứ không phải hay ở kiến thức, nó là cách tu. Ở trong hoàn cảnh nào minh đọc là mình hiểu liền.

Do đó, bây giờ mình nói cái hiện tại nó là con dao 2 lưỡi. Cái quá khứ cái vị lai là con dao 1 lưỡi, hiện tại là con dao 2 lưỡi, nó là quả báo của Nhân Quả, mà nó lại là Nhân của Quả vị lai, còn Nhân quá khứ chỉ có một.

Nếu mình không nhận được Quả quá khứ thì cái hiện tại này anh tạo tác thì  không tránh được cái quả vị lai sẽ có, mà nếu nhìn đây nó chỉ là cái Quả của Nhân quá khứ thì có chắc mình không tạo nữa thì đó là con dao một lưỡi, còn không là con dao 2 lưỡi nó cắt mình ngày hôm nay và cắt mình cho ngày mai, con đường mình cứ quay quần không có thoát ra được.

Mình thiếu Niệm thiếu Tỉnh Giác là mình bị con dao 2 lưỡi, mình đang Thọ rồi mình vay mình trả rồi mình tạo tác nữa, nên cái hiện tại rất là quan trọng, mà chỉ có hiện tại thôi chứ không có quá khứ, nhưng mình không sống trong hiện tại mình thiếu trí là sống với con dao 2 lưỡi, mình vừa cắt mình mà cắt luôn ngày vị lai của mình, mình tự cắt.

Đức Phật Ngài nói đoạn tận hiện tại là đoạn tận cả 3; đoạn tận hiện tại, quá khứ không trổ, vị lai không sinh, nếu biết cách, còn không là cứ chạy hoài quá khứ, hiện tại, vị lai. Mình phải nhìn thấy cái hiện tại có giá trị.

Đức Phật nói 3 pháp mình phải nhớ; nó có vị ngọt là có vị nguy hiểm, hiện tại mà mình đang hưởng là có vị ngọt, mình đâu có nếm được vị của quá khứ, không nếu được vị của vị lai, mà nó có vị ngọt là có vị nguy hiểm, tại vì mình chỉ phóng dật một cái, quên mình một cái là con dao cắt mình.

Nghiệp báo không thiên vị, không thêm không bớt, nhiều ít là theo cái mình đã tạo tác.

Có ai nếm được thưởng thức quá khứ, có ai nếm được thưởng thức vị lai ? Vị hiện tại chính là vị ngọt mà có vị ngọt là có vị nguy hiểm.  Một phút phóng dật quên mình là nó cho mình mại vong liền.

 Khi ta học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh không học vì kiến thức, mà học cách để tu tập, sống trong Dị Thục Quả chứ không sống trong Phiền Não, không sống trong Nghiệp Báo.  Nếu sống trong Nghiệp Báo mình đã biết được thì chỉ sống với nó thôi chứ không tạo tác. Và ta chỉ trong Thọ thôi chứ không sinh lên Ái, nếu sinh lên Ái là sẽ Sinh, Lão, Bệnh, Tử liền./.


-------------------------------------

Quả Dị Thục có 8, 

Thiện và Bất Thiện, vô ký

1. Đồng thời dị thục. Nhân Quả xảy ra cùng một lúc

2. Dị thời dị thục: Khác thời mà chín. Dụ như trái xoài, từ khi sinh cho đến khi chín, thời gian khác nhau.

3. Dị loại dị thục: Khác loài mà chín. Dụ như trái xoài, khi nhỏ tính chua, đến chín lại ngọt.

4. Biến dị thục: Biến đổi khác chất mà chín. Dụ như trái xoài, khi nhỏ thì xanh, đến khi già chín biến đổi lại vàng.

Vì thức Dị thục này lãnh thọ thân quả báo, nên gọi là Dị thục quả. Tính chất của Dị thục quả là vô ký (không nhất định thiện hay ác); song về nghiệp nhân đời trước của nó, lại có thiện và ác.

vô ký 

----------------------------------

Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10

Lược trích

Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán tâm như tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời. Thế nào là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm?

Ở đây, tỳ-khưu với tâm có tham, biết rõ: “Tâm có tham”; hay với tâm không tham, biết rõ: “Tâm không tham”. Hay với tâm có sân, biết rõ: “Tâm có sân”; hay với tâm không sân, biết rõ: “Tâm không sân”. Hay với tâm có si, biết rõ: “Tâm có si”; hay với tâm không si, biết rõ: “Tâm không si”.

Hay với tâm thu hẹp, biết rõ: “Tâm thu hẹp”.

Hay với tâm tán loạn, biết rõ: “Tâm tán loạn”.

Hay với tâm quảng đại, biết rõ: “Tâm quảng đại”; hay với tâm không quảng đại, biết rõ: “Tâm không quảng đại”.

Hay với tâm hạ liệt, biết rõ: “Tâm hạ liệt”. Hay với tâm vô thượng, biết rõ: “Tâm vô thượng”.

Hay với tâm có định, biết rõ: “Tâm có định”; hay với tâm không định, biết rõ: “Tâm không định”.

Hay với tâm giải thoát, biết rõ: “Tâm giải thoát”; hay với tâm không giải thoát, biết rõ: “Tâm không giải thoát”.

Như vậy, vị ấy sống quán tâm như tâm bên trong; hay sống quán tâm như tâm bên ngoài; hay sống quán tâm như tâm bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong tâm, hay sống quán tính diệt tận trong tâm; hay sống quán tánh sinh và diệt trong tâm. Hay nhận thức “có tâm đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm.

– (Kinh Lập Niệm - Satipaṭṭhāna Sutta, MN10) 


No comments:

Post a Comment

03 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- Vô Minh duyên Hành- HT Sán Nhiên giảng ngày 30 tháng 11, 2024

  03 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- Vô Minh duyên Hành  - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024 Minh Hạnh đã nghe để học và, x...