Thursday, June 12, 2025

02 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024

 02 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh-  - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "02" - Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Vô Minh duyên Hành

Vô Minh duyên Hành và Hành duyên Vô Minh.

Thi dụ:

-  Vô Minh duyên Hành, vì không biết mà làm là Vô Minh duyên Hành. 

- Rồi làm  mình không biết cái quả này xảy ra gì, nghĩa là Hành duyên Vô Minh

Devadatta (Đề Bà Đạt Đa)  không biết mà ganh tỵ với Đức Phật hay ganh tỵ với Ngài Xá Lợi Phất, ông phá hòa hợp Tăng, lăn đá chảy máu chân Phật, đó là ông Vô Minh duyên Hành, nhưng hành động của ông làm dẫn tới Vô Minh, ông không biết mà làm thì hành động đó sẽ dẫn ông trở lại Vô Minh, chứ không được sáng suốt.

Ngài Tịnh Sự dịch: Chúng sanh già chết khổ sầu, bởi do pháp lậu dẫn đầu vô minh.

Học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh có 2 phương pháp:

1)  phương pháp thứ nhất là về kinh tạng,

2)  phương pháp thứ 2 là Phát Thú Paṭṭhāṇa.

Kinh Tạng nói pháp chế định, 

Phát Thú Paṭṭhāṇa chỉ nói pháp Siêu Lý, biết pháp Siêu Lý mình mới nắm được.

khi nói tới Paṭiccasamuppāda là có A thì có B, có B thì có C, mình có thể nói ngược lại C có thì B có, mà có B thì có A, đi suôi rồi đi ngược lại.  

Đức Phật Ngài nói có 4 pháp từ đầu đi tới cuối, rồi từ cuối trở lên đầu, rồi từ giữa đến cuối, từ giữa đến đầu, mỗi cái nó có ý nghĩa của nó.

Vô Minh duyên Hành thì nói ngược lại là Hành duyên Vô Minh.

Nếu nói 3 pháp là Nghiệp Báo Luân, Dị Thục Quả Luân, Phiền Não Luân.

Nếu nói 3 thời là Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai là nói theo Kinh Tạng.

Thì dụ mình nói, nhân quá khứ cho quả hiện tại, nhân hiện tại cho quả vị lai. 

Ngài Nāgasena nói với Vua Milinda có 3 điều không thành tựu khi tụng kinh Thánh Hộ Trì Paritta, Ngài Nāgasena nói theo Nhân và Quả theo duyên.

1) Thứ nhất, tụng như con vẹt

2) Thứ hai, làm nghiệp ác làm. Việc ác mà làm rồi thì tụng không có hiệu quả.

3) Thứ ba, phiền não, khi mình đang tụng mà mình bị phiền não

Mình tập nhìn pháp,  Đó là 3 điều không thành tựu khi tụng kinh Paritta.

Bây giờ mình nói phần Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh có 3 điều:

1) Thứ nhất là, Nghiệp Báo Luân.

2) Thứ hai là, Dị Thục Quả Luân.

3) Thứ ba là, Phiền Não Luân.

 khi tụng kinh mà tâm đang phiền não tham, sân, si, hôn trầm, thụy miên là tâm không thanh tịnh thì tụng không có hiệu quả vì đang có phiền não luân.

Theo cách của Ngài Nāgasena nói với vua Milinda mình cũng áp dụng được qua Liên Quan Tương Sinh, mình phải biết cách vận dụng như vậy.

Như vậy, khi Vô Minh duyên Hành mà mình sống ở trong 3 luân này là mình đang ở trong Vô Minh duyên Hành, mình đang làm cái đó ở loại luân nào mình phải biết.

Khi mình làm Vô Minh duyên Hành mà trong trạng thái của Nghiệp Báo Luân thì mình biết do kiết sử và tập khí của mình sinh ra nó bắt đầu làm lại, nó là Vô Minh duyên Hành, nó không sửa được, cái nghiệp nó đi tới như vậy.  Rồi khi nó đang ở trong trạng thái sinh ra do cái nghiệp của nó, nó đang làm với trạng thái Vô Minh duyên Hành thì nó đang làm cái đó là một trạng thái phiền não chi phối và nó sẽ để lại quả báo của một cái Hành duyên Vô Minh.

Mình phải tập nhìn như vậy thì mình áp dụng mới được.

Bây giờ nói 3 Thời:

- Quá Khứ ---> tri đắc

- Hiện Tại ----> knowing

- Vị Lai  ------> seen

Mỗi một thời mình đều biết hết, những cái này thì  mình phải biết.

Quá khứ, hiện tại, vị lai, thì nếu nói 3 thời thì mình biết mình trong thời nào ?  

Nếu người ta hỏi: Hiện bây giờ bạn đang ở thời nào ? Thì mình trả lời là : Tôi đang ở thời hiện tại.

Người ta hỏi trong 3 thời; quá khứ, hiện tại, vị lai, bạn đang ở thời nào ?  Minh trả lời chơn ngôn, sự thật : "Tôi đang ở thời hiện tại", chứ không thể nói : "Tôi đang ở trong thời quá khứ", hay không thể nói : "Tôi đang ở trong thời vị lai".

Nhưng nếu nói cái đó là mấy cô chỉ biết cái pháp hiện tại thôi, nhưng khi học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh, không cho phép cô nói : "Tôi đang ở thời hiện tại" và cô không được nói : "Tôi đang ở trong thời quá khứ", mà phải nói "Những gì tôi đang có đây là tôi biết là quả báo của quá khứ, và nếu như tôi không dừng lại ở đây với những trạng thái liễu tri của tôi biết được đây tôi sẽ có quả báo ở vị lai", thì người đó là người có trí, người đó qua khỏi Vô Minh duyên Hành.  

Còn người Vô Minh duyên Hành họ không biết được 3 thời, họ chỉ biết một thời, chính thời đó họ không biết được nhân quả. 

Nên khi mình học thì mình biết là không có pháp tự nhiên được, nó có duyên sinh duyên hệ hết.

Bữa nay học Liên Quan Tương Sinh thì phải biết thời mà mình đang có, thời đó là mình phải chịu trách nhiệm nhân quả của 3 thời, và phải cẩn thận trong 3 thời chứ không thể nói tôi chỉ biết một thời.

Vậy thì áp dụng, khi mình đang có quả dị thục thì mình phải biết nó là kết quả của một Nghiệp Báo và nó sẽ cho ra Nghiệp Quả một phiền não.

Thí dụ. Mình biết mình là người Nhị Nhân hay người Tam Nhân không ? Mình không biết, bây giờ học mình biết mình là người Nhị Nhân.  

Thì người Nhị Nhân này là Dị Thục Quả.  Họ sinh ra đã là người Nhị Nhân, đó là Dị Thục Quả, thì Dị Thục Quả là nghiệp báo.  Và khi mình không hiểu được cái này thì nó cho mình một phiền não, mặc cảm, buồn tủi, xấu hổ.

Do đó, quí Phật tử tu tập hành pháp Liên Quan Tương Sinh với Đại Thiện Tương Ưng Trí thì mới được.

 Khi mình đi vào trong một pháp thì phải biết nhìn, mình bị nhân quả của 3 thời. Từ đó mình sẽ bắt cho được kiết sử của mình, cái tập khí của mình, cái thói quen của mình; mặc cảm tự ti, tôi ta của mình, buồn tủi hay xấu hổ, mặc cảm, hay là mình biết tách ra được những phiền não đó sẽ tác động chi phối mình trong hành động trong lời nói.

Thí dụ như mình nghiệm ra được trong thời gian tu tập, nghiên cứu Phật Pháp, nghe qua kinh điển, được làm người nhị nhân, mình phiền não hay là mình buồn tủi, hay mình mặc cảm xấu hổ, lúc đó mình đang ở trong Liên Quan Tương Sinh, còn nếu mình có Tương Ưng Trí Đại Thiện là mình sửa được.

Sư dẫn chứng: Vua Trời Đế Thích Saka, Ngài là Thiên Chủ của các Chư Thiên, nhưng hào quang của Ngài kém hơn các vị Chư Thiên làm phước đức hơn Ngài, Ngài nhìn thấy các vị Chư Thiên có hào quang sáng hơn Ngài là Ngài núp.  Nhưng khi Ngài hiểu được tại sao hào quang của Ngài kém hơn các vị Chư Thiên khác, thì Ngài mới nghiệm ra là từ trước đến giờ Ngài làm việc xã hội chứ Ngài không làm việc Tam Bảo.  Đầu tiên Ngài bị phiền não lắm khi Ngài nhìn thấy các vị Chư Thiên hào quang sáng hơn Ngài, chứ Ngài không biết đó là dị thục quả của Ngài, do đó Ngài né tránh, nhưng sau Ngài tìm ra được là tại vì hồi đó Ngài làm việc xã hội như xây nhà thương, sửa đường phố hay giúp đỡ người nghèo, Ngài chỉ làm những cái đó thôi, chứ chưa bao giờ Ngài cúng dường cho Tam Bảo.

Có một vị Chư Thiên họ chỉ cúng dường một giá cháo hay một giá cơm hay một bữa cơm cho một vị Tỳ Khưu một nhà Sư, còn vị Thiên Chủ chỉ cho làng xóm chứ không cho các vị Tỳ Khưu.

Thì Ngài nghiệm ra, Ngài đến gặp bà vợ thứ tư tên là Sujata, người không lo tu tập đến khi chết tái sinh thành con cò. Ngài mới kêu bà vợ thứ tư đi làm phước với Ngài để được hưởng nghiệp lành.

Ngài  tìm ra được là Ngài Kassapa vừa nhập thiền Diệt 7 ngày ra thì Ngài xuống cúng dường liền.  Ngài và bà vợ thứ tư giả thành 2 ông bà già sống ở cuối làng, tại vì Ngài Kassapa có lời nguyện là chỉ độ người nghèo thôi, nên 2 ông bà đứng trong một ngồi nhà ở cuối làng, khi Ngài Kassapa đến đưa bát vô thì 2 ông bà để bát liền.  

Và Ngài thoát ra khỏi 3 pháp ; Nghiệp Báo, Dị Thục Quả, Phiền Não.  Còn nếu như không biết pháp này là mình sẽ sống trong luân hồi hết phiền não, rồi tạo tác nghiệp, rồi có nghiệp báo, rồi mình tạo tác nữa, nghiệp báo rồi phiền não nó quay tròn nên gọi nó là luân, nó xoay chuyển hoài.

Học về Liên Quan Tương Sinh có nhiều kết nối, có nhân, có quả, mình biết mình đứng ở góc độ nào là phải áp dụng liền.

Nếu như học Abhidhamma mà chưa học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh thì mình sẽ nói rằng tôi có luân, tôi đang Phiền Não Luân, hay tôi đang có Nghiệp Báo Luân, hay tôi đang có Dị Thục Quả Luân.  

Con bất hiếu, đó là dị thục quả của tôi, thì ta tìm ra được Dị Thục Quả Luân. Già yếu bịnh đó là Nghiệp Báo Luân. Không có tiền để sống là Phiền Não Luân. Thì quí Phật tử trở lại vòng quanh, tức tốc trở vào vòng quay, thân, ngự, ý, lúc đó quí Phật tử đang nghĩ là mình Vô Minh duyên Hành.

 Cô nói ra, gặp ai tới cô than là Vô Minh duyên Ngữ Hành, còn nếu nói nữa tâm cô đang nghĩ là Vô Minh duyên Phi Phúc Hành, tôi không làm phước nên bây giờ tôi khổ.

Học Paṭiccasamuppāda có 2 cách; một là để mình thấy pháp, hai là để mình tu tập để sửa pháp, đó là bẻ vành khoen, chứ không phải khóa vành khoen để mình cột nối thành dây chuyền vào cái khổ.

Khi không biết quí Phật tử nói tôi sống trong phiền não, đó là quí Phật tử nói thật, tôi ở trong hoàn cảnh phiền não, thì quí Phật tử ở trong phiền não luân, và quí Phật tử không biết bẻ gãy, và quí Phật tử ở trong luân hồi đó.

 Do đó mình biết rồi thì chữ Đại Thiện Tương Ưng Trí là ở đó.  Cho dù mình có tâm thiện đi nữa nhưng không có trí là mình cứ nhìn nhận sự thật, chứ không biết bẻ, không biết giải thoát.

Tôi biết tôi có phiền não, nhưng tôi không có ở trong đó nữa.

Vô Minh duyên Hành, rồi Hành trở lại Vô Minh, thật ra nó là chung nguyên chỉ là Nhân Quả thôi.

"Cửu huyền thất tổ nội ngoại hai bên, ông bà cha mẹ hòa giác" chứ đâu phải một đời, thế thì bảy đời trở lại với mình đây là cái duyên, mà người trở lại là một người khác, bữa nay làm vua mai làm hoàng hậu, bữa khác làm lính, có khi làm con chuột, con mèo, con chim.

Nếu không có duyên thì không trở lại, chứ mình không thể nói là mình không biết, mà mình không có trí thôi, đừng có chủ quan với trạng thái vô minh của mình.

Chính chỗ đó mình sống trong trạng thái lúc nào cũng phải có trí, còn không là ở trong nhân quả này.

a person of mature wisdom man = sapañño = người hữu phước = bậc hữu trí thuần thục

pañño = trí tuệ

 sapañño = người hữu phước = bậc có trí

sakkāya diṭṭhi nếu kaya ditthi thì khác nhưng có chữ sa đằng trước thêm phụ âm k --> sak,  sakkāya diṭṭhi thì nó lại khác.

sa = hữu

kāya = thân

diṭṭhi = kiến

sakkāya diṭṭhi  là hữu thân kiến

Trong tiếng Pali chữ sapañño dịch ra tiếng Anh mình hiểu nghĩa Pali thì mình dịch tiếng Anh nó sát với pháp hơn. Khi người ta nói kāya diṭṭhi là người có thân kiến, mình nói "tôi  có thân kiến" thì phải sakkāya diṭṭhi, còn mình chỉ người khác thân kiến thì không dùng chữ sa, mình nghĩ mình có thì mới nói sakkāya diṭṭhi, mình nhìn người này người kia mình nói người này còn thân kiến, người kia còn thân kiến chứ mình không nói người này hữu thân kiến, người kia hữu thân kiến là mình nói dư.

Vậy thì khi mình nói mình còn phiền não không ? Mình nói tôi còn có phiền não thì nói sakilesa, nói tôi ở trong phiền não, tôi còn phiền não.  Nhưng khi có trí, trí tuệ này là mature, nó thuần thục rồi, nó sắc bén rồi, nó chín muồi rồi thì mình sẽ thấy là tôi biết phiền não chứ tôi không có ở trong phiền não.  Điểm danh phiền não gì mình nói được nhưng mình không có trong đó. Thì người đó đang ở trong trạng thái luân vatta, một cái luân hồi. 

 Khi ta học pháp Paṭiccasamuppāda ta tìm được nhân và quả, cái đó là nhân quả nó có vòng giây luân hồi samsara-vatta có 3 vòng giây hết Nghiệp Báo rồi tới Phiền Não rồi tới Dị Thục Quả không bao giờ hết, mà trong 3 luân liên kết nhau quay vòng vòng và xiết chặt nhau và nó cuốn hút chúng sanh lọt trong đó.

Như vậy, khi mình nói mình là người nhị nhân, tức là mình thiếu trí, mình chỉ có 2 nhân vô tham, vô sân.  Khi mình nói mình là người nhị nhân là mình thiếu trí thì mình ở trong trạng thái nhị nhân này mình đang ở trong trạng thái mình ở trong luân.

Ví dụ, người ta nói số bà coi chừng tháng này v.v.... cái mình về mình ôm cái đó mình ngồi đó, thì mình ở trong đó, mình có trong đó.  

Do đó, khi người ta nói mình là người nhị nhân, hay mình học pháp rồi mình nghiệm lại mình biết mình là người nhị nhân thì mình không ở trong đó.

Vậy thì, khi mình đã học Vô Minh duyên Hành, Sư nói theo Kinh Tạng, thì bây giờ 'không biết mà làm' là Vô Minh duyên Hành, mình xem câu đó là thành ngữ 'không biết mà làm' cái gì cũng không biết mà làm, không chịu dừng lại, không nghĩ suy mà làm những điều thiếu trí, thì việc làm đó gọi là Vô Minh duyên Hành.

Từ bây giờ trước khi làm việc gì thì mình phải nghĩ suy.

Tại vì mình biết rồi, mình không có Vô Minh duyên Hành nữa. Mình là người nhị nhân mình biết rồi thì mình không hành động của người nhị nhân nữa.

Nên phải cẩn thận, Vô Minh duyên Hành, mà còn không thì Hành duyên Vô Minh, mình nhìn thấy mình, nhìn thấy người, mình thấy được hết.

Câu thứ 2, Sư gợi ý, Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức.  Như vậy thì cái Hành này là mới trong tác ý thôi chứ chưa có hành động, cái thức này nó mới ra.  

Mà cái thức nó duyên qua Danh Sắc thì Danh Sắc này nó mới tạo tác nghiệp báo, cái đó phải nghiệm ra. Chứ đừng nói Vô Minh duyên Hành tức là hành động ra kết quả rồi. Không phải, nó mới đang Hành Uẩn thôi, nó chưa qua tới Thức, cho dù là hành động này, cái ý nghĩ này còn đang nằm trong ý, nó sẽ làm hành động này để nói ra lời là Ngữ Hành, nhưng nó còn đang trong Hành, Thức nó mới ra.

Đọc cho kỹ chứ đừng phán quyết liền là mình nhìn không đúng với Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh. 

Vô Minh duyên Hành, nói anh có tâm gì, anh hành động gì, là mình không biết Hành duyên Thức, rồi nói qua Thức duyên Danh Sắc, Danh pháp rồi Sắc Pháp. 

Chính do đó, Hành này nằm trong Tâm Sở Tư trong chiều hướng nó đi của Vô Minh tác hành hay là dẫn dắt, chứ chưa tới Thức.

Có 7 Hành với 86 Hành (xem phần trích dẫn ở cuối bài)

Tại sao mới Vô Minh duyên Hành thôi, mà Hành còn duyên Thức, rồi Thức duyên Danh Sắc, rồi Danh Sắc mới duyên Lục Nhập. 

Thì tới phần duyên Lục Nhập là 6 căn, 6 trần, tức là nội ngoại bắt đầu là tiếp xúc. Xúc rồi mới Lục Nhập. Rồi duyên Xúc, mới Lục Nhập thôi chưa xúc, nó mới đối diện thôi chưa xúc, chưa bắt, Xúc rồi duyên Thọ cũng chưa bắt nữa, Thọ duyên Ái là mình mới bắt được. 

Nên mình phải đọc cho kỹ, và con đường đó mình biết mình không lọt vô, và mình biết người ta, mình sửa người ta, mình giúp người ta được. 

Khi mình nói Vô Minh duyên Hành là mình bắt đầu chuẩn bị, chứ không phải lo lắng, không lo lắng cho mình không lo lắng cho người. Bắt đầu mình chuẩn bị, thì cái đó với trạng thái đó là người đó có Đại Thiện Tương Ưng Trí, còn không thì mình lọt vô quỹ đạo. 

Thì khi mình Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, nó liên tục chạy theo con đường của nó.

Hữu duyên Sinh, tức là một chúng sinh mới hay là một nghiệp báo mới, hay là một phiền não mới, hay một luân hồi mới. Sinh có nhiều nghĩa. 

 Rồi sinh bắt đầu già lão bệnh hoạn phiền não khổ đau trong đó. Những cái đó là những chặng đường Thủ duyên Hữu, Thủ duyên Sinh, Sinh rồi bắt đầu lão hoại tử là phiền não sinh.

Như vậy thì mình nói ngược lại Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Vô Minh. 

- Hành duyên Thức, Thức duyên Hành

Mình nhìn chúng sinh, con đường họ đang hành động, mình nhìn được 2 chiều.

Mình nhìn mình, mình đang sống trong đây, mình nhìn được 2 chiều; chiều suôi với Đại Thiện Tương Ưng Trí mình biết. Chiều ngược với Đại Thiện Tương Ưng trí mình biết, mình mới ra, mình tập được cái đó, mình đọc mình hiểu được mình mới nhìn chúng sinh khác mới được.

Thí dụ. Một người đang nói, mình đang nghe người đó đang nói, thì người đó đang ngữ hành, mà ngữ hành này là người đó đang nói là đang tạo ra hay là đang tác ý tạo ra ngữ hành, tạo ra thức để mà nói hay là đang hiện bày ra một cái Danh Sắc của con người đó, thì mình tìm ra được.

Thí dụ.  Người đang nói.

Nếu nói người đang nói này, thì họ có Lục Nhập, hay là đang có Xúc. Mình nói cái nào cũng được. 

Thí dụ như: Người đang nói với người nghe.

Bây giờ mình nhìn, mình đứng mục kích, mình thấy người này đang nói người kia đang nghe.

Thì bây giờ mình muốn nói cái này là:

Người đang nói ----------------> Người đang nghe

 Lục Xúc (Lục Nhập)                  xúc

40.28 hay người đang nói là Thức của họ làm việc, đằng trước Thức là Hành,  Thức duyên Danh Sắc

      Hành -<-----Thức ------> Danh Sắc.

để hình 02-41.36



Nếu mình nói Lục Xúc mà duyên cho xúc, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ.

Bây giờ Sư nói phần họ có Tâm Thức thì họ nói, thì Danh Sắc này nếu họ nói trong Pháp như Đức Phật Ngài nói Pháp, Ngài không nói tôi ta của Ngài, còn người thường, người thế gian, mình đây cũng vậy, nếu mình không nói trong Pháp thì có cái tôi cái ta của mình, còn nếu không thì nó chỉ là danh Pháp thôi, và ngữ của mình nói ra là sắc Pháp thôi, sắc Tâm thôi.

Người ta nói với Tâm Thức, thì nhìn lại Tâm Thức này mà Ý Hành của họ, Ngữ Hành của họ, hay là Thân Hành của họ, hay Phi Phúc Hành của họ, hay Phúc Hành của họ nó tạo tác ra Tâm Thức này, thì nó mới ra cái tôi cái ta, nó không nằm trong Pháp.

Nhìn là mình nhìn vô Pháp, người đang nói họ đang có Thức, thì cái Thức họ đang nói trong cái Hành của họ, Ý của họ đang nói cho cái Thức của họ, Ngữ họ đang Hành trong cái Thức của họ, Thân của họ nói trong cái Thức của họ, hay là họ nói trong Phi Phúc Hành, hay là họ nói Phúc Hành. Từ cái Thức của họ là mình nhìn ra được. 

Thì họ đang làm là cái Quả từ cái Nhân, rồi từ cái Quả sẽ là Nhân và nó sẽ cho ra cái Quả khác.

Nhân <--------  Quả ----------> Quả

                     Nhân

Thí dụ. Người đang nói trong Pháp, thì họ đang nói trong Phúc Hành làm duyên cho Thức, từ Tâm Thiện họ nói ra, nhưng họ không biết cái này là cái nhân cái quả, hay là họ không biết cái phước hay tội, họ cứ nói theo máy móc như con vẹt, thì mình nói đó là trạng thái của nghiệp báo họ làm như một hành động, 

Mình tìm ra được hết, chính mình cũng vậy. Khi mình nghe người ta nói, hay mình đang nói mà mình nghiệm lại là mình nói với Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, hay mình nói với Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, thì mình tìm ra được cái đó.

Từ đây mình nhìn mình thấy được hết. Danh Sắc, Ái, Thủ, Hữu, nó ra được hết với cách nhìn của Liên quan tương sinh (paṭiccasamuppāda)

Nếu quí Phật tử không đi theo Đại Thiện Tương Ưng Trí thì đi trong vòng khoen này và mình không biết đầu nguồn nó ở đâu.

Nên người mà không biết Pháp họ mới nói: "Tiền tiền vô thủy hậu hậu vô chung", không biết khởi đầu lúc nào và không biết kết cục khi nào hết.  Nhưng khi Đức Phật Ngài dạy mà mình hiểu được Pháp rồi thì mới "tiền tiền vô thủy" mình không biết cái khởi nguyên nhưng mình biết cách kết thúc.

Thí dụ.  

- Nếu  ở trong trạng thái Lục Nhập để sắp sửa đi tới Xúc.

- Lục Nhập duyên Xúc, rồi Xúc duyên Thọ, mà quí Phật tử đứng ngay trong Lục Nhập, quí Phật tử đã 6 căn tiếp xúc 6 trần rồi mà sắp sửa tạo ra một cái Xúc để ra cái Thọ ra cái Thủ, Hữu, thì quí Phật tử dừng lại liền, tại vì mình biết Lục Nhập này đằng trước là cái Pháp của một Vô Minh làm gốc trở lên thì ngừng lại liền.

- Chứ còn đi vô nữa thì nó vô Xúc, rồi Xúc duyên Thọ, rồi nó ra nữa.

Bây giờ trở lại.  Trong mấy khóa tu Sư nói làm cái gì mình phải dùng trí lực chứ không dùng thể lực, tức là mình làm trạng thái gì, Đại Thiện Tương Ưng Trí, chứ không phải làm với tập khí thói quen, ngồi xuống cũng phải có trí, đứng lên cũng phải có trí, ngồi niệm cũng phải có trí, mình đứng lên mình đổi oai nghi cũng phải có trí, còn không là Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc.

Thì con đường đi nó như vậy, nếu nó lập đi lập lại thì mình sẽ đi trong 3 luân hồi giống như con chuột bạch lọt trong trái banh nó quay hoài không có ra, và ngồi một hồi thì phiền não, một chút xíu nữa thì cảm thấy đau do nghiệp báo tạo ra nên cứ trong luân hồi này hoài.

Còn ngay khi Thọ lên rồi mà Thọ này là Thọ của Đại Thiện Tương Ưng Trí, cái Thọ này từ Vô Minh dẫn tới Thọ mình phải ngừng lại, chứ không phải Thọ này để cho nó sinh ra, tất cả mình phải dừng lại.

Đại Thiện Tương Ưng Trí chỉ lập đi lập lại có một chút thôi, đọc lại chi pháp Tâm Thiện có luôn, nó làm duyên cho Tâm Thiện luôn, mà nó ra cái nghiệp của nó cái quả của nó và trong đó là Quả của tạo tác Vô Minh.

Do đó, mình mới thẩy bài paṭiccasamuppāda cái giá trị là mình làm sao thấy được duyên sinh duyên hệ của vòng khoen Vô Minh duyên Hành cuốn mình vô trong 3 luân này, và đó trong cái khoen nào ở bất cứ trong 12 vòng khoen ở trong bất cứ giai đoạn nào  mà đã nằm trong 3 luân; Nghiệp Báo Luân, Phiền Não Luân, Dị Thục Quả Luân là không thoát ra được.

Ngay khi trong Thọ mà gốc của nó từ Vô Minh đi lên là chết.  Khi mình có Hữu, có Sinh Hữu, có Nghiệp Hữu, Dục Hữu, Sắc Hữu, Vô Sắc Hữu.  Nó có Hữu, cái Hữu đó mà của cái Thủ của Vô Minh duyên Hữu cũng là cái chết.

Người ta hỏi mình có Hữu không ? 

- Tôi có, 

Hữu gì ?  

- Tôi đang Dục Hữu, tôi còn trong dục giới tôi có Dục Hữu, nhưng tôi không đi theo con đường của Vô Minh duyên Hành, thì mình mới tách ra.

Còn ở trong Dục Thủ, do đó mới bào chữa; mình sống trong cõi Dục Giới thì làm sao thoát khỏi được cái dục này được, ai cũng bị dục chi phối mà, thế là họ buông, họ đi theo Phiền Não Luân với một cái Nghiệp Báo Luân của Dị Thục Quả của họ đang mang.  

Nên người ta vẫn nói; số nghèo đi đến xứ mô cũng nghèo, nó không thay đổi được, bị chìm trong đó không ra được.

Người mẹ dạy con là đời công bằng, nếu con chịu khó kiên trì nhẫn nại, còn không số nghèo đi đến xứ nào cũng nghèo, tức là mang số phận nghèo đi. Ngay cả mình là người nhị nhân mình đâu có nhìn nhận mình là người nhị nhân, mình có thể vượt qua được mà, mình làm được mà, và mình làm được, còn không thì thôi. mình phải vượt lên, mình phải thay đổi hoàn cảnh của mình.

Khi biết được hoàn cảnh mình là mình phải bẻ gãy cái hoàn cảnh của mình, chứ không phải mình ngồi an phận rồi than thở về hoàn cảnh đó.  Đó gọi là Đại Thiện Tương Ưng Trí, còn an phận và than thở trong hoàn cảnh đó là Liên Quan Tương Sinh trong 3 Luân.

Do đó khi học về Liên Quan Tương Sinh mình ở góc nào là mình phải biết góc đó và mình biết cách của nó, vậy muốn bẻ cái nào và cách nào mình bẻ.

Do đó khi mình đọc bài Biên Niên Xử, Ngài Mingun nói tất cả vị Bồ Tát bậc Chánh Giác, Ngài nói tất cả các vị Bồ Tát hạnh nguyện Toàn Giác đi trên con đường Tứ Chánh Cần, bất thiện nào chưa sanh đừng cho sanh, bất thiện nào đã sanh diệt nó đi, thiện nào chưa sanh phải cho nó sanh, thiện nào sanh rồi phải cho nó tăng trưởng.

Mình ở trong qũi đạo của vô minh này trong tam luân này thì mình phải đi con đường Tứ Chánh Cần và đứng ở góc độ nào là mình phải chặn đầu tiên nhất là đừng có tạo nữa và bắt đầu mới diệt, chứ không bao giờ ở giữa cái này mà vẫn còn để cái cửa để nó tạo ra là không có lối thoát nữa, cách diệt Liên Quan Tương Sinh là vậy.

 Tứ Chánh Cần:

1) Bất thiện - chưa sanh

2) Bất thiện - đã sanh

3) Thiện - chưa sanh

4) Thiện - đã sanh

Khi quí Phật tử đứng trong chuỗi bất luận chỗ nào trong Liên Quan Tương Sinh, thí dụ đang trong trạng thái Thọ làm duyên Ái, mà trước Thọ là Xúc.  Khi mình biết được mình ở trong điểm Thọ thì mình dùng Tứ Chánh Cần bẻ.  Thí dụ như đứng ở Xúc thì mình dùng Tứ Chánh Cần bẻ, nếu đứng ở Ái thì dùng Tứ Chánh Cần bẻ.

Trong Tứ Chánh Cần, Bất Thiện chưa sanh, Bất Thiện đã sanh, Thiện chưa sanh, Thiện đã sanh, thì cái nào mà mình biết nhiều, cái nào mà mình biết rõ và biết chính xác và khả năng biết thì mình mới bẻ được.

Với Bất Thiện nào đã sanh và Thiện nào đã sanh, mình đưa lên bàn cân  để biết  Bất Thiện nào đã sanh và Thiện nào đã sanh cái nào rõ nhất, thói hư tật xấu của mình mình biết, tánh tốt nào của mình.

Trong 2 vế, vế bất thiện nào mình đã có và vế thiện nào mình đã có, cái nào mình biết rõ nhất, mình hiểu mình nhất.

 Mình đang ở trong Thọ, Thọ Hỉ về thân về tâm, Thọ Lạc về thân về tâm mình biết, thì sau khi có Thọ Hỉ về thân hay về tâm nó sẽ đi lên Ái thì Ái đó mình biết  như thế nào, thì lúc đó mình dùng Tứ Chánh Cần đừng cho nó sanh Ái lôi cuốn mình, rồi mình mới ngừng lại trong cái này rồi mình diệt trừ cái nhân tạo ra cái Thọ để cho mình không bị cuốn lôi tạo tác thì mới ra được Tứ Chánh Cần.

Vậy thì khi bất kỳ cái nào mình đưa 12 khoen, ngay khi ở khoen Già, Đau, Chết thì mình biết là đằng trước là Sinh, từ cái Sinh đi tới Già, Đau, Chết , mà Già, Đau, Chết này nó tạo ra Vô Minh ở kiếp sau nữa, thì ngay lúc này mình đang ở Già, Đau, Chết, mình không muốn rớt xuống Vô Minh, mình cũng không bị ảnh hưởng Sanh chi phối, thì mình phải dùng Tứ Chánh Cần bẻ gãy, không có pháp nào khác hơn.

Trên con đường tu tập bẻ 12 vành khoen này chỉ có Tứ Chánh Cần thôi và quí Phật tử không bao giờ đi hết Tứ Chánh Cần được, nếu mà đi hết Tứ Chánh Cần là chết trong trạng thái Vô Minh duyên Hành, chỉ đi Thiện Chánh Cần thôi, chứ không đi hết, Thiện nằm trong Đại Thiện Tương Ưng Trí.

Ở trong bất cứ khoen nào, khi mình Già, Đau, Chết là cái cửa sanh trở lại Vô Minh, đường luân hồi, sự tái sanh sẽ trở lại với mình thì lúc đó mình đi Tứ Chánh Cần là mình phải nỗ lực trong cái Thiện và mình không truy hoài pháp Thiện mình đã có và mình chỉ nghĩ tới cái Thiện mình đang có và mình vun bồi cái Thiện đang có đó để mình làm Thiện đó.

 Nếu mình rơi trong giòng suối nước.  Nếu trong suối nước đó mà mình vùng vẫy là gãy tay gãy chân, mình phải suôi xuống tới đáy rồi thì búng (bơi) ngang vô bờ chứ mà bơi ngược lên là gãy tay gãy chân.  Thì khi cô đang ở trong Già, Đau và Chết chuẩn bị con đường tái sinh patisandhi (thức tái sinh) thì mình chỉ nằm trong Thiện Chánh Cần thôi, chứ không nghĩ tới Bất Thiện Chánh Cần, mình nghĩ rằng "với Bất Thiện Chánh Cần mình biết rồi mình không làm nữa, mình không hối hận vì đã làm bất thiện" sự suy nghĩ này trong giờ phút già đau chết là mình Vô Minh duyên Hành, chỉ được ở trong Thiện Chánh Cần thôi.

Do đó, khi ở trước cửa tử người ta không muốn có một Vô Minh trở lại trong cái Sanh để mà họ luân hồi trong Nghiệp Báo Luân hay Phiền Não Luân hay Dị Thục Quả là ngay lúc đó họ phải Tứ Chánh Cần cái Thiện nhiều (Thiện nào chưa sanh thì cho sanh, Thiện nào đã sanh thì cho phát triển) không chễnh mạng được.

 Bây giờ ở trong Thọ thì biết cái Ái sẽ tới, mà Thọ này là nó có bao nhiêu là Xúc có bao nhiêu.  Người ta chửi nhiều nhiều chừng nào thì Thọ có nhiều, có Xúc nhiều và Ái lên nhiều, một chuỗi dài.  Nhưng mà không,  ta không bị động, lúc bấy giờ lấy Thiện Chánh Cần chứ không nằm trong Bất Thiện.

Ananda thấy người ta chửi mắng Đức Phật sốt ruột nên thỉnh Đức Phật qua làng khác, Ngài nói: "Này Ananda nếu đi cả thế gian này người ta cứ tiếp tục chửi Như Lai thì đi đâu nữa" Ngài nói câu đó Ananda hết câu trả lời và hết khuyên Ngài đi đâu.  Rồi Đức Phật một lần Ngài nói với Angulimala: "ta đã đứng lại rồi, người còn chưa đứng, ngươi còn chạy".

Do đó, quí Phật tử phải biết nếu chạy theo Bất Thiện thì quí Phật tử chưa đứng, nhưng chạy theo Thiện là quí Phật tử đứng lại với trạng thái Bất Thiện ngưng tác động, tức là Bất Thiện ngưng tạo tác thì là Thiện.

Người ta hỏi bẻ Liên Quan Tương Sinh bằng cách nào ? Bằng Tứ Chánh Cần trong trạng thái Thiện Chánh Cần và mình cố gắng không tạo Bất Thiện nữa thì mới có đủ thì giờ mới đủ khả năng bẻ cái nhân Sanh của nó. Đó là cách tu Liên Quan Tương Sinh.

Tứ Chánh Cần không tạo tác mới đủ để mà diệt cái nhân, đứng ở góc độ nào cũng vậy.

 Đứng về vấn đề Thời Kāla.  

Khi mình đang ngồi ở đây mà mình bị người ta chửi, ngay Thời Kāla này, thì mình mới nói cái này là cái nhân của quá khứ, giờ nhân hiện tại quả này giờ tôi đang ngồi đây.  Nếu mình biết cái đó thì mình dừng lại, nhưng người ta có 3 thời, tôi còn không đứng lại, tôi còn tạo tác, tôi có vị lai nữa.  Thì vừa cái hiện tại đây có cái vị lai mà cái vị lai cái hiện tại đây nó cắt cái quá khứ. 

 Mình chạy cái hiện tại, không cắt được quá khứ mà không chặn được vị lai.

Mình không trả hết nghiệp được, mẹ Sư nguyện trả hết nghiệp, Ngài Tịnh Sự nói ta không trả nổi, bao nhiêu lúa gạo ta ăn của người nông dân ta nguyện trả hết, trả không nổi, mình không trả nổi quá khứ.  Nhưng mà cho quả trổ sanh mình chặn ở đây và cái quả nó không có, cái nhân mình nhìn thấy mình diệt nó được.

Do đó, quí Phật tử nhớ khi đi Pháp Hành, khi pháp nghịch nó đến thì chạy pháp nghịch là mình chết, phải tính và phải giải quyết thì nó mới hết, ở góc độ nào cũng vậy, khi ngồi thiền ở trong Thọ, cảm thọ đau mình không cho chạy qua Ái, khi mình đổi oai nghi là đã có cái Ái nó lên, thì Ái nó không thúc đẩy được mình thì bắt đầu mình quay lại nhìn Xúc thì mới nhìn được nó, đứng ở góc nào cũng được hết.

Vô Minh duyên Hành nó mới là trong tác ý thôi, và biết được nhân này có quả này thì nó sẽ tiếp tục ra nhân và quả khác nữa, mình ngừng ở đó thì được, chứ nếu Hành duyên Thức rồi mình phải cẩn thận, Tâm bắt đầu hoạt động, mà Tâm chưa hoạt động mà nó duyên Danh và Sắc, là Danh pháp và Sắc pháp nó tạo tác luôn, thân hành, ngữ hành, ý hành luôn trong 3 cái.  Sắc Thân, Tâm Thức, 2 cái phối hợp thành Danh Sắc này thì nó lại ra nữa.  Mà chưa nữa, nó chỉ là tích lũy ra một khối rồi thì nó bắt đầu để cho 6 căn tiếp xúc 6 trần.

Ngài Ananda hỏi Đức Phật khi thấy người phụ nữ thì mình làm sao ?

Đức Phật nói:  Đừng cho tiếp xúc.

Nếu như thấy tướng chung tướng riêng thì sao ?

Đức Phật nói: Thì diệt nó đi.

Ngài nói đừng cho tiếp xúc, tức là Ngài chặn cái quả nó sẽ tạo ra thì mới bắt đầu tìm được cái nhân.

Chận cái quả trước thì mới  diệt được cái nhân.

Còn mình diệt cái nhân mà mở cửa cho quả trổ nữa là nó có lỗ thoát nó chạy.

Mình có một đứa con gái mà có mấy thằng con trai đến nhà, mình làm mẹ làm cha thì mình làm sao.  Chính cái đó mới thấy khi  ở trong Thọ thì không cách nào mình ngưng được Ái nếu mà không có Tứ Chánh Cần, có Thọ là Ái nhảy ra liền, Tâm rất nhanh, nó lẹ hơn ánh sáng. Và khi có Xúc thì có Thọ liền, cô không ngăn được Xúc mà nói không cho Thọ. Như lưỡi khoan Khi lưỡi khoan mà khoan sắt hay khoan đá cái lưỡi khoan nóng lên, tại vì nó có xúc thì nó có Thọ.  Bây giờ mình nói không cho Thọ lên, chuyện đó là không có.

Khi có Thọ là sẽ có Ái thì mình ngưng cái Ái và mình bắt đầu quay trở lại mình ngưng cái Xúc. Còn mình nói ngưng từ đầu là mình tìm lại quá khứ là tìm lại cái Bất Thiện, vì Bất Thiện từ  Xúc nó mới ra Thọ, mình lấy Thiện để chặn Ái thì mới ngưng được và mình quay trở lại bất thiện này đừng cho tạo hay là đừng cho nó tác động, cách đó mình mới ra được Liên Quan Tương Sinh.

 Như vậy thì khi đang trong Ý Hành mà bởi Vô Minh thì phải biết là nếu mình không ngưng trong Ý Hành này, chứ mình không tìm ra Vô Minh mà không ngưng trong Ý Hành nó sẽ gây ra Thức, mình ngưng đừng cho Thức sanh, Ý Hành đang lên thì mình đừng cho Thức  sanh rồi mình quay trở lại coi Vô Minh .

Có Thọ rồi hay mình đang ngưng Ái thì bắt đầu ngưng Ái đừng để nó lôi cuốn rồi trở lại cái Xúc, chứ còn quay lại mà tìm  cái Xúc trong khi Ái nó đang ngầm ngầm lên là khó diệt nó, lúc đó là lưỡng đầu thọ địch ./.


-------------------------------------------------------

(1) Về Liên quan tương sinh (paṭiccasamuppāda, q.v.), trong Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo. XVII nói về 3 luân:

1. Nghiệp Báo Luân (kamma-vatta)  hành và hữu. bao gồm các nghiệp hình thành và quá trình nghiệp (mối liên kết thứ 2 và thứ 10);

2. Phiền Não Luân (kilesa-vatta) vô minh, ái, thủ, bao gồm vô minh, tham ái và thủ (mối liên kết thứ 1, thứ 8 và thứ 9); 

3. Dị Thục Quả Luân (vipāka-vatta) thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-ai. , bao gồm thức, tâm và thân, 6 xứ, ấn tượng, cảm giác (mối liên kết thứ 3-7). So sánh xem sơ đồ paṭiccasamuppāda .

----------------------------------------

 Hành có 7 Hành với 86 Hành

 trích trong

Chú Giải BỘ PHÂN TÍCH

(Vibhanga Atthakathā)

Nguyên Tác Pāli: Bhadantācariya Buddhaghosa

Bản Anh Ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli

Bản Việt Ngữ: Tỳ khưu Thiện Minh


 619. Chúng tạo thành pháp hữu vi (S iii 87), chính vì thế chúng là những hành. Hơn thế nữa các hành lại có hai đặc tính, cụ thể là, 

(a) các hành có vô minh làm duyên và 

(b) các hành được truyền lại trong bản văn Pāli với từ “các hành”. 

Về điểm này, (a) lại có ba hành, cụ thể là (a) tác ý thiện, phi tác ý thiện và bất động hành, 

và lại có ba loại [hành], cụ thể là, thân hành, khẩu hành và tâm hành,

 cả sáu loại hành này do vô minh làm duyên, [135] và toàn bộ sáu hành này chỉ đơn giản là tư thiện và (volition) bất thiện hiệp thế. Nhưng có bốn [hành], cụ thể là, 

(i) hữu vi hành (saṅkhata-saṅkhāra), 

(ii) tối vi hành (abhísaṅkhata-saṅkhāra),

(iii) tác động hành (abhisaṅkharaṇa-saṅkhāra) 

(iv) cần thắng hành (payogābhisaṅkhāra), 

là bốn loại hành được truyền đạt lại trong các bản văn Pāli với từ “các hành.”

620. Về điểm này, (i) toàn bộ các pháp có nhân duyên được khẳng định trong các đoạn như là: aniccā vata saṅkhārā (“các hành đều là vô thường”) ( D. i. 157; S o 158) là “hữu vi hành” (ii) Các sắc pháp và vô sắc thuộc ba cõi được khởi sanh từ nghiệpđược gọi với tên như vậy trong bản diễn giải, “tối vi hành”; những hành này bao gồm trong đoạn: các hành đều là vô thường, nhưng không có ví dụ điển hình nào được truyền lại trong các bản văn Pāli ta tìm thấy được một cách riêng biệt. (iii) Nhưng tư (volition) thiện và bất thiện thuộc ba cõi lại được gọi là “tắc động hành”. Được tìm thấy nơi các đoạn như sau: “Hỡi các vị tỳ khưu, người này với vô minh do nghiệplại hình thành được một tác ý thiện.” (S ii 82) Nhưng thân và tâm tinh tấn được gọi là “cần thắng hành” điều này được truyền xuống trong các bản văn trong các đoạn sau: “ Do xung lượng lôi kéo họ đã đi rất xa, và đứng đờ ra như bị trời trồng” (A. i 112)

621. Và không những chỉ có những loại hành này mới được truyền lại trong các bản văn thông qua từ “hành” mà thôi như trong các đoạn sau: “Hỡi bạn Visāka, vị Tỳ Khưu nào đã nhập thiền diệt thọ và tưởng, trước tiên các khẩu hành cũng diệt, sau đó đến thân hành, rồi cuối cùng là tâm hành” (M. I 302) Chẳng còn hành nào không gồm (i) hữu vi hành.


02 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024

  02 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh-  - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024 Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt...