Friday, August 8, 2025

03 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- Vô Minh duyên Hành- HT Sán Nhiên giảng ngày 30 tháng 11, 2024

 03 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- Vô Minh duyên Hành

 - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "03" - Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh


Vô Minh duyên Hành

TỔNG HỢP NỘI DUNG VÔ TỶ PHÁP

TẬP III: Chương VI-VII-VIII

TỔNG HỢP PHÂN TÍCH DUYÊN HỆ LIÊN QUAN TƯƠNG SINH MINH GIẢI

Trang 270 

Họa đồ có 3 phiền não luân 

Để hình 03 - 1.15



coi qua trang 271

Ghi chú:

          *  VM: Vô Minh (Avijjā) thuộc Phiền Não (PN)

          *  H: Hành (Saṅkhāra) thuộc Nghiệp Báo (NB)

          *  T: Thức (Viññāṇa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          *  DS: Danh Sắc (Nāmarūpa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * LX: Lục Xứ (Saḷāyatana) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * X: Xúc (Phasa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * T: Thọ (Vedanā) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * AD: Ái Dục (Taṇhā) thuộc Phiền Não (PN)

          * CT: Chấp Thủ (Upādāna) thuộc Phiền Não (PN)

          * NH: Nghiệp Hữu (Kammabhava) thuộc Nghiệp Báo (NB)

          * SH: Sinh Hữu (Uppattibhava) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * S: Sinh (Jāti) thuộc Dị Thục Quả (Q)

          * LT: Lão Tử (Jāramaraṇa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

-----------------------000------------------

Ba phiền não luân là gì ?

Thứ nhất là Vô Minh. 

kéo xuống thứ hai là Thủ là phiền não,

thứ ba là Ái Dục là phiền não. 

Tức là 3 Phiền Não đó là Vô Minh, Ái Dục, và Thủ. 

 Rồi 1 hoặc 2 Nghiệp Báo Luân là Nghiệp Hữu thuộc Nghiệp Báo

Cái thứ 3 là 7 hoặc 8 Quả Dị Thục Luân

Thức là Dị Thục Quả

Danh Sắc là Dị Thục Quả

Lục Xứ là Dị Thục Quả

Xúc là Dị Thục Quả

tới Sinh, Lão Tử là Dị Thục Quả.

Như vậy thì khi nói tới Nghiệp Báo Phiền Não, Dị Thục Quả mình biết nằm ở khoen nào của 12 khoen Liên Quan Tương Sinh.

Vô Minh là Phiền Não, không có Nghiệp Báo.

Nghiệp Báo là Hành.

Mình đọc ngược trở lại. 

"Chúng sanh già chết khổ sầu bởi do pháp lậu dẫn đầu là Vô Minh".

Thì Vô Minh là Phiền Não gây ra Nghiệp Báo, chứ không phải Nghiệp Báo tạo ra Vô Minh nếu đi suôi, còn đi ngược trở lại thì khác, bây giờ đang nói suôi Vô Minh duyên Hành thì Phiền Não nó gây ra. 

Thí dụ mình nói:  Ái Dục gây ra Phiền Não, Thủ gây Phiền Não, rồi bắt đầu mới tới Nghiệp Báo của nó là Hữu.

Phiền Não sinh ra Nghiệp Báo, Vô Minh duyên Hành.

Ái Dục sinh ra Nghiệp Báo, Ái Dục sinh ra Nghiệp Hữu.

Tất cả mình phải để ý, nó là cái key để mình nhìn Pháp. 

Sư đang nói Tiền Hữu Luân, Hậu Hữu Luân

khi nào Ái Dục khởi lên. Khi mình đang bị Phiền Não lên là chuẩn bị coi chừng, khi Phiền Não lên là sinh nghiệp, báo động liền.

Nghiệp Báo là đi sau Phiền Não, Phiền Não chừng nào là nghiệp Báo gây chừng nấy.

Pháp Hành của mình là mình phải nhìn thấy Pháp, và mình biết tu tập Pháp, chứ còn không thì mình mò mẫm không được, mình làm cái gì mình phải biết.  

Thì Phiền Não gây ra Nghiệp Báo, mà Nghiệp Báo để lại Quả Dị Thục, 3 cái đó liên đới nhau và nó tuần tự Pháp: Phiền Não sinh ra Nghiệp, Nghiệp sinh ra Dị Thục Quả.

Do đó, vậy mình không muốn có Nghiệp Báo này thì mình không tạo ra Nghiệp Báo này, mà không tạo Nghiệp Báo này mình đừng để bị Phiền Não.

Đi ngược trở lại mình không muốn Quả Báo này thì mình không tạo ra Nghiệp.

Khi mình mang thân người nữ mà mình thấy quả báo này là thân người nữ là do nghiệp nào ? Đó là bỏn xẻn, ganh tỵ, đố kỵ, đó là nghiệp của người nữ hay nghiệp báo bỏn xẻn ganh tỵ là do đâu ? Là do Phiền Não.

Nhìn người nữ thì có nghiệp của người nữ và có phiền não của họ.

Nhìn người nam thì có nghiệp của người nam và có phiền não của họ. 

Nhìn như vậy thôi. 

Nhìn việc thiện thì có nghiệp của thiện và nó có quả nghiệp báo của nó, nó có Phiền Não của nó, nó trong vòng khoen, người giàu người nghèo cũng vậy.

 Mình nhìn người giàu người nghèo cũng vậy, người trí người không có trí cũng vậy.

Thí dụ mình nhận ra mình là người nhị nhân thì đó là Quả Dị Thục, thì nghiệp nào và do phiền não nào mình tìm ra được.

Như vậy thì mình mới tìm ra Phiền Não có 3 là Vô Minh, Ái Dục, và Thủ. Ba Phiền Não tạo ra 2 Nghiệp Báo.

Nghiệp báo có 2 tạo ra 8 Dị Thục Quả.

Thì bây giờ mình coi Danh Sắc.  Con người mình có 2 thành phần là Danh và Sắc, đó là Quả Dị Thục, và bởi Nghiệp Báo gì ? và do Phiền Não gì ?

Mình không nói một cách rất là bừa bãi một cách rất là vô trí được, mình nói phải có nhân có quả có nguyên nhân gốc gác, nói có căn bản, chứ không nói ngang nói ngược, nói vô nhân vô quả là không được, cái đó mình là Vô Nhân Kiến.

Khi ta gặp Danh Sắc thì nó thuộc về Dị Thục Quả, mà Dị Thục Quả do Nghiệp Báo, mà Nghiệp Báo có do Phiền Não.

Có nhà văn viết: "Tôi lỡ sinh ra là vì sao xấu", thì đó là thuộc về Danh Sắc của người đó, thì người này không đổ thừa là do người mẹ người cha, không đổ thừa ai làm ra mình, mà là do Nghiệp Báo của mình và do Phiền Não của mình tạo ra con người mình và mình không trách ai được nữa.

Bây giờ đến Thọ.  Vui buồn khổ mộng mơ tư tưởng trong Thọ, đó là Dị Thục Quả, đó là Nghiệp Báo rồi Phiền Não.

 Đó là biết nhận khi nhìn vào biểu đồ.

Coi trong bản đồ cái Tiền Hữu Luân, Hậu Hữu Luân. Thì khi nói Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân có sự liên đới với nhau như thế nào.

Trang 273.

        Như vậy có năm Nhân thuộc về Thời Kỳ Quá Khứ, năm Dị Thục Quả thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại, năm Nhân thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại và năm Dị Thục Quả thuộc về Thời Kỳ Vị Lai.

        Vô Minh, Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu thì thuộc về Phiền Não Luân; một phần của Hữu được gọi là Nghiệp Hữu và Hành thì thuộc về Nghiệp Báo Luân; một phần còn lại của Hữu được gọi là Sinh Hữu thì thuộc về Dị Thục Quả Luân.  Như vậy cũng cần nên hiểu biết rằng có ba Vòng Luân Hồi; Vô Minh và Ái Dục là hai Căn Nguyên. Sự tận diệt những Căn Nguyên ấy thì sự Luân Hồi được chấm dứt.  Vô Minh được phát sinh và tiếp diễn tăng trưởng là do bởi các Lậu Hoặc, và luôn luôn bị bức bách do bởi Lão Mại Tử Vong.

         Như vậy vị Đại Tu Sĩ đã trình bày giải thích tình trạng rối rắm của những kiếp sống vô thủy và hệ lụy này ở trog ba Cõi Giới, dưới hình thức định lý Liên Quan Tương Sinh.

Trang 269

TỪ NGỮ GIẢI THÍCH

       1. Việc luân chuyển trong Tiền Hữu Luân (Pubbantabhavacakka - Bánh xe luân hồi trước xoay chuyển) có như vầy:

       .  Vô Minh (Avijja) làm Nhân - Hành (Saṅkhāra) làm Quả.

       .   Hành làm Nhân - Thức (Viññāṇa) làm Quả

       .   Thức làm Nhân - Danh Sắc (Nāmarūpa) làm Quả.

       .   Danh Sắc làm Nhân - Lục Xứ (Saḷāyatana) làm Quả.

       .   Lục Xứ làm Nhân - Xúc (Phasa) làm Quả.

       .   Xúc làm Nhân - Thọ (Vedanā) làm Quả.

       .   Thọ làm Nhân - Vô Minh làm Quả.

Bất luận khi nào Ái Dục khởi sinh lên bởi do nương vào Thọ làm Nhân thì ngay trong sát na ấy Vô Minh cũng cùng câu sinh với Ái Dục; chính vì thế một khi bánh xe luân hồi đã xoay đến Thọ rồi, thì mới xoay trở lại gặp Vô Minh và bắt đầu lại thêm lần nữa.

        2. Việc luân chuyển trong Hậu Hữu Luân (Aparantabhavacakka - Bánh xe luân hồi sau xoay chuyển) có như vầy:

        .  Ái dục (Taṇhā) làm Nhân - Chấp Thủ (Upādāna) làm Quả.

        .  Chấp Thủ làm Nhân - Nghiệp Hữu (Kammabhava) làm Quả.

        .  Nghiệp Hữu làm Nhân - Sinh (Jāti) làm Quả.

        .  Lão Mại Tử Vong (Jaramarapa) làm Nhân - Ái Dục làm Quả

------------------------------------------

Bất luận khi nào Ái Dục khởi sinh lên tới Thọ làm Nhân thì nó quay trở lại Vô Minh làm Quả, cái đó là Tiền Hữu Luân, nó xoay theo vòng tròn đó.

Tới Hậu Hữu Luân nó xoay từ Ái Dục xuống tới Lão Mại Tử Vong.

Vậy thì khi bất chợt mình nhìn về mình, hay bất chợt mình nhìn về người, mình thấy người đó đang có Ái Dục thì mình nhìn thấy nếu mà nhìn từ Ái Dục thì mình biết nó sẽ đi Hậu Hữu Luân nó đi như thế nào. Ái Dục không nằm trên Tiền Hữu Luân được, nó nằm trong Hậu Hữu Luân.

Thọ nằm trong Tiền Hữu Luân, mà Tiền Hữu Luân. Thọ là Quả của Xúc, nó là Nhân của Vô Minh. Đứng 2 góc mình thấy.


           Xúc      <-------- Thọ --------->    Vô Minh


Thọ là Quả, Xúc là Nhân, và Thọ trở lại làm Vô Minh (Tiền Hữu Luân) bất kỳ lúc nào trong tốc độ nào cũng vậy, trong đời sống hàng ngày cũng vậy, nếu mình lọt vô trong vòng khoen của Liên Quan Tương Sinh này mà mình không có Đại Thiện Tương Ưng Trí để thấy được, mình không bẻ gãy được. mình sẽ bị lầm theo tư kiến của mình hay tập khí kiết sử của mình, nên nó trở thành pháp lậu, nó trở lại luẩn quẩn, giống như con kiến lọt vào chén đường nó luẩn quẩn không đi ra khỏi chén đường.

Thọ là Quả của Xúc, nó là Nhân của Vô Minh.  Khi mình không có Đại Thiện Tương Ưng Trí mà mình đứng ở trong Thọ là rớt liền.  Nên lý do tại sao trong bài Satipaṭṭhāna bài Niệm Xứ  Đức Phật Ngài nêu Thọ là một trong Tứ Niệm. 

Nếu cô không học Paṭiccasamuppāda mình sẽ không hiểu tại sao Thọ chỉ là Tâm Sở thôi mà sao nó nằm trong Paṭiccasamuppāda.  

Nên cái đó quan trọng, mà nó nằm ở trong góc độ của Tiền Hữu Luân, nó quay vòng tròn trong đó, vừa Vô Minh xuống tới Thọ, quay trở lại Vô Minh xuống Thọ, Nhân Quả chứ nó chưa qua Ái.  Hậu Hữu Luân từ Ái, Hậu Hữu Luân là Nhân nó xuống tới Sinh Lão Bệnh Tử là Hậu Hữu Luân là khác nữa.

Khi đứng ở góc độ Thọ nó khác đi qua góc độ Ái Dục là bắt đầu mình qua  luân hồi là khác.

Quả do từ nơi Nghiệp, mà Nghiệp do từ nơi Phiền Não.

Thứ hai nữa Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân nó có ranh giới của nó và nó có quy trình của nó và nó có vòng xoay của nó chứ không lẫn lộn được, mình không nói theo tư kiến tập khí của mình được.

Sư chưa nói chi pháp Vô Minh có 8 bất tri, Hành có 6 hay 7 Sư sẽ nói trong phần chi tiết.

Bữa nay Sư muốn quí Phật tử nắm được 2 mối của Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân là một, thứ hai là nắm 3 bản đồ Nghiệp Báo sinh ra Phiền Não, Phiền Não sinh ra Quả Dị Thục.

Như vậy, khi một hành động về Nghiệp Báo qua 3 trường hợp, qua 3 thể loại như ta nói Thân, Ngữ, Ý.

Một hành động về Nghiệp Báo hiện bày qua Thân, Ngữ, Ý là một loại do bị tác động của Phiền Não.

Một hành động Nghiệp Báo qua Thân, Ngữ, Ý bị tác động bởi Nhân là Phiền Não và nó sẽ để lại cái Quả Dị Thục của cái Nghiệp Báo này.

Do đó 3 cái: 

Phiền Não

Nghiệp Báo

Quả Dị Thục.

Bất kỳ lúc nào mà quí Phật tử tư duy nó, hay kiểm soát nó, hay là tu tập nó, thì quí Phật tử thấy đâu cũng vậy. 

Thí dụ như thấy Phiền Não thì mình thấy vòng xoay của nó.

Hay, nếu thấy một cái Nghiệp Báo mình thấy vòng xoay của nó.

Hay, thấy Quả Dị thục thì mình thấy vòng xoay của nó.

Như vậy, khi ở trong khuôn của Quả Dị Thục, Quả Dị Thục có 8, mà trong khuôn của Quả Dị Thục thì phải cẩn thận, Quả Dị Thục này do Nghiệp Báo tác động hay là Nhân, rồi trong Nghiệp Nhân này là do tác động của Nghiệp của Phiền Não.

Mình tu tập là muốn bẻ gãy từ Nhân Quả, chứ không phải nói theo kiểu không có trí.

Quả Dị Thục mình không ngừng được, Quả Dị Thục mình muốn nó ngừng không cho nó trổ, mình không muốn đón nhận cái Quả này thì phải ngăn từ trên Nghiệp, mà muốn không có Nghiệp tạo ra thì phải ngăn nó từ Phiền Não.

Cũng vậy khi bất cứ người nào tới với mình, họ mang một Quả Dị Thục đến cho mình thì mình tìm ra được Nghiệp Báo và Quả Phiền Não của họ mình mới giải quyết ra được.

Đức Phật Ngài nhìn chúng sanh đến với Ngài với Quả Dị Thục và Ngài tìm được Nghiệp Báo khi nhìn được Phiền Não của họ.

Bậc Khīnāsavabala bậc lậu tận tức là bậc đó đã diệt trừ lậu hoặc, thì bậc Khīnāsavabala là bậc phải là Alahan, thứ 2 là Ngài phải đắc Lục Thông, tức là Lậu Tận Thông, còn 5 thông kia là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, thì cái đó là thông thường, nhưng bậc Khīnāsavabala phải là Alahan đắc Lậu Tận Thông.

Thì khi bậc Khīnāsavabala lậu tận thông họ mới nhìn thấy chúng sanh còn đang hữu lậu họ mới gỡ ra được.

 Khi Ngài Anurudha đắc Tam Quả mà hành không được Tứ Quả đến tâm sự với Ngài Trưởng Lão Sariputta thì Ngài Sariputta nhìn cái quả đó là quả Dị Thục gì, là do Nghiệp của Anurudha, rồi Phiền Não là gì ? Là Ngã Mạn, do đó không đắc đạo quả được.  Thì Ngài Anurudha trở về diệt ngã mạn và đêm đó Ngài đắc Alahan.

Cái ngã mạn là một phiền não, nó nuôi dưỡng ở trong ý nghiệp của người đó, do đó quả Dị Thục là nó chặn lại không cho trổ sanh, phải diệt phiền não đi, diệt ngã mạn thì không còn nghiệp báo trong ý nuôi dưỡng ngã mạn này thì mới ra khỏi

Học Liên Quan Tương Sinh phải biết hành để tu, chứ không phải đọc để mà biết để có trí thức.  Ở vị trí nào cũng tu được, ở vị trí nào cũng hành được, ở vị trí nào cũng bẻ gãy được, từng giai đoạn nó đi xuống luôn. 

Khi mình xác định được 3 cái Phiền Não, Nghiệp Báo, Quả Dị Thục, bắt đầu coi cái Luân là lập đi lập lại thì mình phải đi theo Luân đó mới tìm ra được, mới bẻ gãy cái đó được, chứ không đi từ Luân này bẻ Luân kia được.

Khi cảm Thọ tới  thì quay trở lại Vô Minh, còn nếu qua  Ái thì mình đi xuống Sinh, Lão, Bệnh, Tử.  Tử trở lên Ái thôi, chứ không qua Vô Minh lên tới Thọ. Mình phải biết quy trình đó mình mới bẻ được.

Mình đứng trong Tiền Hữu Luân thì phải đi trong qui đạo của Tiền Hữu Luân và phải bẻ Tiền Hữu Luân.  Mình đứng trong Hậu Hữu Luân, mình muốn bẻ thì bẻ Hậu Hữu Luân.

 Thí dụ, quí Phật tử đang đi ngoài đường, đi bộ nãy giờ nhiều quá giờ muốn ngồi nghỉ, hay mình chạy bộ, hay tập thể dục nhiều rồi ngồi nghỉ.  Thì mình coi trạng thái muốn ngồi nghỉ hay là thấy thân mình đang mệt mỏi, 2 cái đó nó khác nhau hay là giống nhau, mình phải coi trong Tiền Hữu Luân và Hậu Hữu Luân.

Như vậy thì khi ngồi xuống thì mình đang có cái Thọ hay là cái Ái.  Khi  ngồi xuống có Thọ thì mình trở lại Tiền Hữu Luân.  Mà cô ngồi xuống mà có Ái thì Hậu Hữu Luân.

 Như vậy thì khi đi bị mệt mình ngồi xuống mà có Ái thì phải Sinh, Lão, Bịnh, Tử là Nhân cho Ái này.  Nãy giờ đi mệt là Lão, thì Lão sinh ra Ái, chứ không nói qua Thọ.  Còn khi ngồi xuống rồi là cô hết biết rồi là mình hoan hỉ rồi mình trở lại Vô Minh vì mình thỏa mãn rồi. Thọ làm duyên cho Vô Minh.

Vậy thì khi đang Ái là Phiền Não đang lên, nó ra cái Nghiệp. 

Nếu Thọ sanh lên là Dị Thục Quả thì bắt đầu mình tìm Nghiệp Báo.

Tại sao có cái Thọ này ? là do Nghiệp Báo. Cái Nghiệp Báo này do đâu ? là do Phiền Não. Mình ra cái gốc.

Thọ khổ về thân, Thọ Ưu về tâm sân vì Nghiệp Báo của mình lúc nãy là thân hành là do đi nhiều quá, mà thân hành là do Phiền Não.

Ái là Phiền Não, nếu Ái là Phiền Não thì mình trở lại Tiền Hữu Luân. Lão Mại làm Nhân, Ái Dục làm Quả.

Trở lại trang 269 

Lão Mại Tử Vong (Jaramarapa) làm Nhân - Ái Dục làm Quả.  Đi mệt giờ muốn ngồi.

Nếu đứng trong bánh xe luân hồi, luân hồi là lập đi lập lại thì mình đứng ở khoen nào mình nói khoen đó, nếu đang ở Thọ thì mình đi vòng qua Tiền Hữu Luân.  Nếu có Ái thì đi qua Hậu Hữu Luân. Mình phải biết để mình bẻ gãy, để mình tu tập, Nhân nào Quả đó. 

Đức Phật Ngài nói bẻ gãy bánh xe luân hồi không nổi. 

Là mình không biết cách bẻ và mình không nhìn ra được bánh xe đó, bây giờ muốn nhìn vô bánh xe đó rồi mới biết cách bẻ nó thì mới ra được.

 Như Ngài Ananda sau khi ngồi thiền xong nói với Đức Phật là Pháp Liên Quan Tương Sinh dễ quá.

Xem trang 422 

Việc thẩm sát Liên Quan Tương Sinh của Trưởng Lão Ananda và lời giáo giới của Đức Phật.

Ngài Trưởng Lão Ananda nói - Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật là điều rất huyền diệu, là một điều rất đặc biệt, đã không từng hiện bày từ trước đây.  Kính bạch Thề Tôn, Ngài là bậc tiến hóa, Pháp Liên Quan Tương Sinh này đã hiện bày rõ ràng đối với con tương tự như rằng Pháp này rất là nông cạn vậy.

Đức Phật nói không phải. Theo lẽ thường nhiên, sự hiện hành của nước hiện hữu ở bốn thể loại, đó là:

1. Một vài nơi, khi đã trông thấy thì hiểu biết được là sâu thẳm; tuy nhiên sự thật thì chỉ cạn độ 2 - 3 hắc tay thôi. Chẳng hạn như nước ở trong hồ hoặc trong nương lại có lá cây rụng xuống, đã rã mục ở dưới đáy hồ hoặc đáy mương; và đã làm cho nước ấy hiện bày sắc màu xanh lam. Người trông thấy, thì sẽ hiểu biết rằng nước ở trong hồ, hoặc trong mương ấy rất sâu thẳm, tuy nhiên nếu như dò xem nông hay sâu, thì sẽ hiện bày là cạn hều.

2. Nước ở một vài nơi, khi đã trông thấy thì hiểu biết được là nông cạn; tuy nhiên sự thật thì rất sâu thẳm. Chẳng hạn như nước ở trong hồ, hoặc ở trong ao, trong suối; thì một vài nơi có sự trong vắt cho đến nỗi nhìn thấy được các sự vật hiện hữu ở đằng ấ một cách rõ ràng; và đã làm cho người trông thấy có sự hiểu biết rằng là cạn hều. Tuy nhiên noeesu như dò xem nông hay sâu, thì sẽ hiện bày là sâu thẳm.

3. Nước ở một vài nơi, khi đã trông thấy thì hiểu biết được là cạn hều, và sự thực nước trong chỗ đấy cũng có Thực Tính là cạn hều; chẳng hạn như nước ở trong cái lu, trong cái chậu, trong cái nồi, v.v.

4. Nước ở một vài nơi, khi đã trông thấy thì hiểu biết được là sâu thẳm; và sự thực nước ở trong chỗ đấy cũng có Thực Tính là sâu thẳm, chẳng hạn như nước ở trong đại dương hùng vĩ.

Trang 424.

 Nhưng mà nhờ Ananda có 4 phước báu nên hiểu mau: 

1. Kỳ Phúc Thị Giả (Upaṭṭhakaadhikāro): Là người đã từng kiến tạo Xả Thí, Trì Giới, Tu Tập; và rồi đã có sở nguyện vọng được làm Thị Giả Đức Phật.

2. Môn Đồ (Antevāsiko): Được làm người thân cận (môn đồ, đệ tử) với Bậc Đại Tôn Sư.

3. Thất Lai Giả (Sotāpanno): Đã thành tựu viên mãn Quả vị Thất Lai.

4. Đa Văn Giả (Bahussutadharo): Làm thành bậc đa văn quãng kiến.

Thì khi quí Phật tử biết Liên Quan Tương Sinh, biết tu, biết hành, biết bẻ pháp Liên Quan Tương Sinh thì nằm trong Đa Văn Giả, thứ hai nữa là môn đồ của Đức Phật, quí Phật tử có được 2 pháp trong 4 pháp.

Liên Quan Tương Sinh có kỹ thuật của nó, nó có phương pháp của nó, có kim chỉ nam của nó.

Khi nào mình có Phiền Não là mình có Nghiệp Báo, mà Phiền Não nó tạo ra, trong Nghiệp Báo nó có Quả mình phải đón nhận mình phải chịu.

Tham kích động Thân, Ngữ, Ý làm thì gặp quả báo.

Sân kích động Thân, Ngữ, Ý làm thì gặp quả báo.

Giờ mình nhìn Nghiệp Báo của mình, chứ không phải mình nhìn của người ta. Học Liên Quan Tương Sinh là để học cách tu.

Học Liên Quan Tương Sinh mình có văn sở thành tuệ, tư duy sở thành tuệ, tu tập sở thành tuệ, mình có tam tuệ; Văn, Tư, Tu.

 Bất luận mình đang ở trong Quả Dị Thục, bất luận mình ngồi trong nhà, ngồi trên xe hay trong lớp học này, mình có Quả rồi bắt đầu mình coi cái Nghiệp cái Quả của mình.

Thí dụ, mình đang đi có người xô mình té thì bắt chỗ té của mình xuống thì coi đó là Quả hay đó là cái Phiền Não. Nếu là Phiền Não thì coi chừng mình tạo ra Nghiệp.  Còn là Quả thì cho qua, thì không có gì xảy ra nữa.

Mình đang đi chợ rồi mình trợt chân té, nếu nó là Dị Thục Quả thì không có Phiền Não, còn nếu mình coi đó là một Phiền Não thì coi chừng có Nghiệp Báo. Nếu coi đó là Phiền Não rồi cô oan trái thì có Nghiệp Báo. 

Mình học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh là như vậy.

Nếu người tu họ chỉ nhìn thấy Dị Thục Quả thôi, còn người đời họ nhìn thấy đó là Phiền Não, mình không biết nên Vô Minh duyên Hành là vậy, có Nhân có Quả.

Nếu tới Thọ mà dừng lại thì mình trở lại Tiền Hữu Luân, mà mình bước qua Ái là phải qua Hậu Hữu Luân. Ái nhiều chừng nào thì mình đi xuống tới Sinh, Lão, Tử lẹ chừng nấy.

Bài học Satipaṭṭhāna là Niệm Xứ có 2 Pháp là Niệm và Tỉnh Giác,  mà mình không biết hành là mình chết, chết là vì thiếu Niệm, chết vì thiếu Tỉnh Giác.

Satipaṭṭhāna là tâm trong tâm, là Tâm trong Tâm mình hay là Tâm trong Tâm của nó đang sinh, mình chết là vì thiếu Niệm. Nếu tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí thì đó là Tâm trong Tâm mình chứ không đi ra ngoài.

Còn nếu Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí mà Tâm này mà có Tâm kia thì mình đang đi ra ngoài. Đại Thiện Tương Ưng Trí Tâm trong Tâm mình giữ Tâm của mình, chứ  nhìn Tâm ngoài là sai, thì cõ Na Cảnh rồi.

Thiền sinh hỏi: Khi mình có điều bất thiện ở trong tâm .

HT trả lời: Không được nghĩ tới điều bất thiện bất cứ lúc nào, mình phải diệt trừ ngay. Cô nói là cô có bất thiện trong tâm là cô sai rồi. Mình phải giữ tâm mình, giữ như là giữ đôi mắt của mình.

Satipaṭṭhāna là tâm trong tâm là không phải mình nhìn tâm khác. Tâm trong Tâm là Tâm của mình nhìn Tâm mình, rồi mình sửa mình tu Tâm mình là an toàn, không có Tâm nào nhìn ra ngoài.

Do đó, nếu cô có học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh thì tới Thọ là mình có một vòng Luân, mà mình qua Ái là qua vòng Luân khác, Ái chừng nào thì Lão Mại chừng nấy. Ái sinh ra Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Sinh, Lão, Bệnh, Tử duyên trở lại Ái.

Khi người cận tử lâm chung mà không có tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí họ có tâm tham ái đi tục sinh, tâm tham ái là đi thục sinh, tham ái nó vòng lại. Do đó, khi sai lầm là mình biết và phải diệt trừ nó.

Tất cả đều có Nhân Quả, Nhân nào thì Quả đó, mà vòng quay của nó, nên quí Phật tử bẻ gãy vòng luân hồi, mình nói Saṁsāra thì người học hỏi anh Tiền Hữu Luân hay Hậu Hữu Luân, anh muốn bẻ vòng luân hồi loại nào, thì bậc Khīnāsava bậc Lậu Tận người ta mới bẻ gốc cho mình.

 Khi nhìn đây là Quả Dị Thục thì ngưng, khi nhìn đây là một phiền não là  còn tạo tác nghiệp báo, và còn va chạm trong Nghiệp Báo này, còn đầy dẫy trong Quả Dị Thục mà Phiền Não lôi kéo.

Khi Thọ tới mình dừng lại nhìn cái Thọ đó, mình đang Thọ Ưu nhưng  đang tìm ra cái Ái, cái Thọ Ưu, nhưng mình không thấy Thọ Ưu của mình nằm ở trong cái già lão mà coi cái Thọ Ưu này là một cái Ái cô muốn thoát.

Khi mình tu mình không thấy phiền não đó là người trí mà mình nhìn thấy đó là cái quả mình sống trong Quả Dị Thục, 

Thân mình là Danh Sắc là Dị Thục Quả, mà ngay cả Lục Xứ 6 căn tiếp xúc 6 trần cũng là Dị Thục Quả, mà mình không chịu dừng trong khi nó là Dị Thục Quả mà mình không thấy nó là Dị Thục Quả mà mình sinh lên một cái Ái khi căn tiếp xúc trần sẽ ra Ái nó ra Phiền Não liền. 

Thọ dừng lại, Thọ Ưu cũng được, Thọ Khổ cũng được, nhưng đừng sinh Ái.

Quí Phật tử đọc lại cái bản đồ; Nhân hiện tại, Nhân quá khứ, cho Quả hiện tại, Nhân hiện tại cho Quả vị lai.

 Khi có cái Ái làm Nhân hiện tại thì Sinh Già Bệnh Chết là Quả vị lai.

Ái hiện tại đây, Ái giờ này, phút này mà Ái sinh thì giờ này tháng sau nó là vị lai. Vậy thì mình sống trong đây mình sống theo pháp Quả, mình là Danh Sắc, mình là Quả. Rồi có 6 căn; thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, ý là Quả. 

Có Xúc thì có Thọ mình ngừng, chứ mình qua Ái là mình đi xuống Sinh, Lão, Bệnh, Tử.  Ái là cái Phiền Não, nó lên Nghiệp Báo.

Trong mỗi sinh hoạt đều có Nghiệp Báo vì mình phóng dật, hai nữa là mình không biết tu không biết pháp, chứ mình biết pháp thì mình dừng, không biết tu thì tạo tác.

Vậy thì người ta hỏi; cô sống trong nghiệp báo để cô chịu Quả Dị Thục hay là cô sống trong Phiền Não để mà tạo tác Nghiệp Báo để mà phải trả Quả Báo này ? 

Nguyễn Du có câu thơ: "Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa", là mình sống trong Dị Thục Quả còn trách gì nữa.  Còn người không chuyên về Nghiệp Báo, cái Quả mình đang hưởng thì mình tạo ra Phiền Não, là Phiền Não đó mình chuốc vô, mình mang vô và mình lãnh.

Ngay cả con đường Đạo Quả là ekāyano maggo là con đường duy nhất, một mình ra đi không ai song hành với mình, mình tu mình chứng.

Một ngày, một giờ, một phút, một giây mà quí Phật tử đang sống, trong pháp hành, trong pháp tu, hay trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, thì mình sống ở đây cái Niệm của mình, cái Tỉnh Giác của mình là mình sống ở trong cái gì ? 

Câu trả lời là : Sống trong Chánh Niệm

Học Liên Quan Tương Sinh nó hay nhưng phải hiểu, hay ở cái tu chứ không phải hay ở kiến thức, nó là cách tu. Ở trong hoàn cảnh nào minh đọc là mình hiểu liền.

Do đó, bây giờ mình nói cái hiện tại nó là con dao 2 lưỡi. Cái quá khứ cái vị lai là con dao 1 lưỡi, hiện tại là con dao 2 lưỡi, nó là quả báo của Nhân Quả, mà nó lại là Nhân của Quả vị lai, còn Nhân quá khứ chỉ có một.

Nếu mình không nhận được Quả quá khứ thì cái hiện tại này anh tạo tác thì  không tránh được cái quả vị lai sẽ có, mà nếu nhìn đây nó chỉ là cái Quả của Nhân quá khứ thì có chắc mình không tạo nữa thì đó là con dao một lưỡi, còn không là con dao 2 lưỡi nó cắt mình ngày hôm nay và cắt mình cho ngày mai, con đường mình cứ quay quần không có thoát ra được.

Mình thiếu Niệm thiếu Tỉnh Giác là mình bị con dao 2 lưỡi, mình đang Thọ rồi mình vay mình trả rồi mình tạo tác nữa, nên cái hiện tại rất là quan trọng, mà chỉ có hiện tại thôi chứ không có quá khứ, nhưng mình không sống trong hiện tại mình thiếu trí là sống với con dao 2 lưỡi, mình vừa cắt mình mà cắt luôn ngày vị lai của mình, mình tự cắt.

Đức Phật Ngài nói đoạn tận hiện tại là đoạn tận cả 3; đoạn tận hiện tại, quá khứ không trổ, vị lai không sinh, nếu biết cách, còn không là cứ chạy hoài quá khứ, hiện tại, vị lai. Mình phải nhìn thấy cái hiện tại có giá trị.

Đức Phật nói 3 pháp mình phải nhớ; nó có vị ngọt là có vị nguy hiểm, hiện tại mà mình đang hưởng là có vị ngọt, mình đâu có nếm được vị của quá khứ, không nếu được vị của vị lai, mà nó có vị ngọt là có vị nguy hiểm, tại vì mình chỉ phóng dật một cái, quên mình một cái là con dao cắt mình.

Nghiệp báo không thiên vị, không thêm không bớt, nhiều ít là theo cái mình đã tạo tác.

Có ai nếm được thưởng thức quá khứ, có ai nếm được thưởng thức vị lai ? Vị hiện tại chính là vị ngọt mà có vị ngọt là có vị nguy hiểm.  Một phút phóng dật quên mình là nó cho mình mại vong liền.

 Khi ta học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh không học vì kiến thức, mà học cách để tu tập, sống trong Dị Thục Quả chứ không sống trong Phiền Não, không sống trong Nghiệp Báo.  Nếu sống trong Nghiệp Báo mình đã biết được thì chỉ sống với nó thôi chứ không tạo tác. Và ta chỉ trong Thọ thôi chứ không sinh lên Ái, nếu sinh lên Ái là sẽ Sinh, Lão, Bệnh, Tử liền./.


-------------------------------------

Quả Dị Thục có 8, 

Thiện và Bất Thiện, vô ký

1. Đồng thời dị thục. Nhân Quả xảy ra cùng một lúc

2. Dị thời dị thục: Khác thời mà chín. Dụ như trái xoài, từ khi sinh cho đến khi chín, thời gian khác nhau.

3. Dị loại dị thục: Khác loài mà chín. Dụ như trái xoài, khi nhỏ tính chua, đến chín lại ngọt.

4. Biến dị thục: Biến đổi khác chất mà chín. Dụ như trái xoài, khi nhỏ thì xanh, đến khi già chín biến đổi lại vàng.

Vì thức Dị thục này lãnh thọ thân quả báo, nên gọi là Dị thục quả. Tính chất của Dị thục quả là vô ký (không nhất định thiện hay ác); song về nghiệp nhân đời trước của nó, lại có thiện và ác.

vô ký 

----------------------------------

Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10

Lược trích

Này các tỳ-khưu, tỳ-khưu sống quán tâm như tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời. Thế nào là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm?

Ở đây, tỳ-khưu với tâm có tham, biết rõ: “Tâm có tham”; hay với tâm không tham, biết rõ: “Tâm không tham”. Hay với tâm có sân, biết rõ: “Tâm có sân”; hay với tâm không sân, biết rõ: “Tâm không sân”. Hay với tâm có si, biết rõ: “Tâm có si”; hay với tâm không si, biết rõ: “Tâm không si”.

Hay với tâm thu hẹp, biết rõ: “Tâm thu hẹp”.

Hay với tâm tán loạn, biết rõ: “Tâm tán loạn”.

Hay với tâm quảng đại, biết rõ: “Tâm quảng đại”; hay với tâm không quảng đại, biết rõ: “Tâm không quảng đại”.

Hay với tâm hạ liệt, biết rõ: “Tâm hạ liệt”. Hay với tâm vô thượng, biết rõ: “Tâm vô thượng”.

Hay với tâm có định, biết rõ: “Tâm có định”; hay với tâm không định, biết rõ: “Tâm không định”.

Hay với tâm giải thoát, biết rõ: “Tâm giải thoát”; hay với tâm không giải thoát, biết rõ: “Tâm không giải thoát”.

Như vậy, vị ấy sống quán tâm như tâm bên trong; hay sống quán tâm như tâm bên ngoài; hay sống quán tâm như tâm bên trong và bên ngoài. Hay vị ấy sống quán tính sinh khởi trong tâm, hay sống quán tính diệt tận trong tâm; hay sống quán tánh sinh và diệt trong tâm. Hay nhận thức “có tâm đây”được thiết lập nơi vị ấy với mức độ cần thiết để hiểu biết và ghi nhớ đầy đủ. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các tỳ-khưu, như vậy là tỳ-khưu sống quán tâm như tâm.

– (Kinh Lập Niệm - Satipaṭṭhāna Sutta, MN10) 


Thursday, June 12, 2025

02 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024

 02 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh-  - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "02" - Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Vô Minh duyên Hành

Vô Minh duyên Hành và Hành duyên Vô Minh.

Thi dụ:

-  Vô Minh duyên Hành, vì không biết mà làm là Vô Minh duyên Hành. 

- Rồi làm  mình không biết cái quả này xảy ra gì, nghĩa là Hành duyên Vô Minh

Devadatta (Đề Bà Đạt Đa)  không biết mà ganh tỵ với Đức Phật hay ganh tỵ với Ngài Xá Lợi Phất, ông phá hòa hợp Tăng, lăn đá chảy máu chân Phật, đó là ông Vô Minh duyên Hành, nhưng hành động của ông làm dẫn tới Vô Minh, ông không biết mà làm thì hành động đó sẽ dẫn ông trở lại Vô Minh, chứ không được sáng suốt.

Ngài Tịnh Sự dịch: Chúng sanh già chết khổ sầu, bởi do pháp lậu dẫn đầu vô minh.

Học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh có 2 phương pháp:

1)  phương pháp thứ nhất là về kinh tạng,

2)  phương pháp thứ 2 là Phát Thú Paṭṭhāṇa.

Kinh Tạng nói pháp chế định, 

Phát Thú Paṭṭhāṇa chỉ nói pháp Siêu Lý, biết pháp Siêu Lý mình mới nắm được.

khi nói tới Paṭiccasamuppāda là có A thì có B, có B thì có C, mình có thể nói ngược lại C có thì B có, mà có B thì có A, đi suôi rồi đi ngược lại.  

Đức Phật Ngài nói có 4 pháp từ đầu đi tới cuối, rồi từ cuối trở lên đầu, rồi từ giữa đến cuối, từ giữa đến đầu, mỗi cái nó có ý nghĩa của nó.

Vô Minh duyên Hành thì nói ngược lại là Hành duyên Vô Minh.

Nếu nói 3 pháp là Nghiệp Báo Luân, Dị Thục Quả Luân, Phiền Não Luân.

Nếu nói 3 thời là Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai là nói theo Kinh Tạng.

Thì dụ mình nói, nhân quá khứ cho quả hiện tại, nhân hiện tại cho quả vị lai. 

Ngài Nāgasena nói với Vua Milinda có 3 điều không thành tựu khi tụng kinh Thánh Hộ Trì Paritta, Ngài Nāgasena nói theo Nhân và Quả theo duyên.

1) Thứ nhất, tụng như con vẹt

2) Thứ hai, làm nghiệp ác làm. Việc ác mà làm rồi thì tụng không có hiệu quả.

3) Thứ ba, phiền não, khi mình đang tụng mà mình bị phiền não

Mình tập nhìn pháp,  Đó là 3 điều không thành tựu khi tụng kinh Paritta.

Bây giờ mình nói phần Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh có 3 điều:

1) Thứ nhất là, Nghiệp Báo Luân.

2) Thứ hai là, Dị Thục Quả Luân.

3) Thứ ba là, Phiền Não Luân.

 khi tụng kinh mà tâm đang phiền não tham, sân, si, hôn trầm, thụy miên là tâm không thanh tịnh thì tụng không có hiệu quả vì đang có phiền não luân.

Theo cách của Ngài Nāgasena nói với vua Milinda mình cũng áp dụng được qua Liên Quan Tương Sinh, mình phải biết cách vận dụng như vậy.

Như vậy, khi Vô Minh duyên Hành mà mình sống ở trong 3 luân này là mình đang ở trong Vô Minh duyên Hành, mình đang làm cái đó ở loại luân nào mình phải biết.

Khi mình làm Vô Minh duyên Hành mà trong trạng thái của Nghiệp Báo Luân thì mình biết do kiết sử và tập khí của mình sinh ra nó bắt đầu làm lại, nó là Vô Minh duyên Hành, nó không sửa được, cái nghiệp nó đi tới như vậy.  Rồi khi nó đang ở trong trạng thái sinh ra do cái nghiệp của nó, nó đang làm với trạng thái Vô Minh duyên Hành thì nó đang làm cái đó là một trạng thái phiền não chi phối và nó sẽ để lại quả báo của một cái Hành duyên Vô Minh.

Mình phải tập nhìn như vậy thì mình áp dụng mới được.

Bây giờ nói 3 Thời:

- Quá Khứ ---> tri đắc

- Hiện Tại ----> knowing

- Vị Lai  ------> seen

Mỗi một thời mình đều biết hết, những cái này thì  mình phải biết.

Quá khứ, hiện tại, vị lai, thì nếu nói 3 thời thì mình biết mình trong thời nào ?  

Nếu người ta hỏi: Hiện bây giờ bạn đang ở thời nào ? Thì mình trả lời là : Tôi đang ở thời hiện tại.

Người ta hỏi trong 3 thời; quá khứ, hiện tại, vị lai, bạn đang ở thời nào ?  Minh trả lời chơn ngôn, sự thật : "Tôi đang ở thời hiện tại", chứ không thể nói : "Tôi đang ở trong thời quá khứ", hay không thể nói : "Tôi đang ở trong thời vị lai".

Nhưng nếu nói cái đó là mấy cô chỉ biết cái pháp hiện tại thôi, nhưng khi học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh, không cho phép cô nói : "Tôi đang ở thời hiện tại" và cô không được nói : "Tôi đang ở trong thời quá khứ", mà phải nói "Những gì tôi đang có đây là tôi biết là quả báo của quá khứ, và nếu như tôi không dừng lại ở đây với những trạng thái liễu tri của tôi biết được đây tôi sẽ có quả báo ở vị lai", thì người đó là người có trí, người đó qua khỏi Vô Minh duyên Hành.  

Còn người Vô Minh duyên Hành họ không biết được 3 thời, họ chỉ biết một thời, chính thời đó họ không biết được nhân quả. 

Nên khi mình học thì mình biết là không có pháp tự nhiên được, nó có duyên sinh duyên hệ hết.

Bữa nay học Liên Quan Tương Sinh thì phải biết thời mà mình đang có, thời đó là mình phải chịu trách nhiệm nhân quả của 3 thời, và phải cẩn thận trong 3 thời chứ không thể nói tôi chỉ biết một thời.

Vậy thì áp dụng, khi mình đang có quả dị thục thì mình phải biết nó là kết quả của một Nghiệp Báo và nó sẽ cho ra Nghiệp Quả một phiền não.

Thí dụ. Mình biết mình là người Nhị Nhân hay người Tam Nhân không ? Mình không biết, bây giờ học mình biết mình là người Nhị Nhân.  

Thì người Nhị Nhân này là Dị Thục Quả.  Họ sinh ra đã là người Nhị Nhân, đó là Dị Thục Quả, thì Dị Thục Quả là nghiệp báo.  Và khi mình không hiểu được cái này thì nó cho mình một phiền não, mặc cảm, buồn tủi, xấu hổ.

Do đó, quí Phật tử tu tập hành pháp Liên Quan Tương Sinh với Đại Thiện Tương Ưng Trí thì mới được.

 Khi mình đi vào trong một pháp thì phải biết nhìn, mình bị nhân quả của 3 thời. Từ đó mình sẽ bắt cho được kiết sử của mình, cái tập khí của mình, cái thói quen của mình; mặc cảm tự ti, tôi ta của mình, buồn tủi hay xấu hổ, mặc cảm, hay là mình biết tách ra được những phiền não đó sẽ tác động chi phối mình trong hành động trong lời nói.

Thí dụ như mình nghiệm ra được trong thời gian tu tập, nghiên cứu Phật Pháp, nghe qua kinh điển, được làm người nhị nhân, mình phiền não hay là mình buồn tủi, hay mình mặc cảm xấu hổ, lúc đó mình đang ở trong Liên Quan Tương Sinh, còn nếu mình có Tương Ưng Trí Đại Thiện là mình sửa được.

Sư dẫn chứng: Vua Trời Đế Thích Saka, Ngài là Thiên Chủ của các Chư Thiên, nhưng hào quang của Ngài kém hơn các vị Chư Thiên làm phước đức hơn Ngài, Ngài nhìn thấy các vị Chư Thiên có hào quang sáng hơn Ngài là Ngài núp.  Nhưng khi Ngài hiểu được tại sao hào quang của Ngài kém hơn các vị Chư Thiên khác, thì Ngài mới nghiệm ra là từ trước đến giờ Ngài làm việc xã hội chứ Ngài không làm việc Tam Bảo.  Đầu tiên Ngài bị phiền não lắm khi Ngài nhìn thấy các vị Chư Thiên hào quang sáng hơn Ngài, chứ Ngài không biết đó là dị thục quả của Ngài, do đó Ngài né tránh, nhưng sau Ngài tìm ra được là tại vì hồi đó Ngài làm việc xã hội như xây nhà thương, sửa đường phố hay giúp đỡ người nghèo, Ngài chỉ làm những cái đó thôi, chứ chưa bao giờ Ngài cúng dường cho Tam Bảo.

Có một vị Chư Thiên họ chỉ cúng dường một giá cháo hay một giá cơm hay một bữa cơm cho một vị Tỳ Khưu một nhà Sư, còn vị Thiên Chủ chỉ cho làng xóm chứ không cho các vị Tỳ Khưu.

Thì Ngài nghiệm ra, Ngài đến gặp bà vợ thứ tư tên là Sujata, người không lo tu tập đến khi chết tái sinh thành con cò. Ngài mới kêu bà vợ thứ tư đi làm phước với Ngài để được hưởng nghiệp lành.

Ngài  tìm ra được là Ngài Kassapa vừa nhập thiền Diệt 7 ngày ra thì Ngài xuống cúng dường liền.  Ngài và bà vợ thứ tư giả thành 2 ông bà già sống ở cuối làng, tại vì Ngài Kassapa có lời nguyện là chỉ độ người nghèo thôi, nên 2 ông bà đứng trong một ngồi nhà ở cuối làng, khi Ngài Kassapa đến đưa bát vô thì 2 ông bà để bát liền.  

Và Ngài thoát ra khỏi 3 pháp ; Nghiệp Báo, Dị Thục Quả, Phiền Não.  Còn nếu như không biết pháp này là mình sẽ sống trong luân hồi hết phiền não, rồi tạo tác nghiệp, rồi có nghiệp báo, rồi mình tạo tác nữa, nghiệp báo rồi phiền não nó quay tròn nên gọi nó là luân, nó xoay chuyển hoài.

Học về Liên Quan Tương Sinh có nhiều kết nối, có nhân, có quả, mình biết mình đứng ở góc độ nào là phải áp dụng liền.

Nếu như học Abhidhamma mà chưa học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh thì mình sẽ nói rằng tôi có luân, tôi đang Phiền Não Luân, hay tôi đang có Nghiệp Báo Luân, hay tôi đang có Dị Thục Quả Luân.  

Con bất hiếu, đó là dị thục quả của tôi, thì ta tìm ra được Dị Thục Quả Luân. Già yếu bịnh đó là Nghiệp Báo Luân. Không có tiền để sống là Phiền Não Luân. Thì quí Phật tử trở lại vòng quanh, tức tốc trở vào vòng quay, thân, ngự, ý, lúc đó quí Phật tử đang nghĩ là mình Vô Minh duyên Hành.

 Cô nói ra, gặp ai tới cô than là Vô Minh duyên Ngữ Hành, còn nếu nói nữa tâm cô đang nghĩ là Vô Minh duyên Phi Phúc Hành, tôi không làm phước nên bây giờ tôi khổ.

Học Paṭiccasamuppāda có 2 cách; một là để mình thấy pháp, hai là để mình tu tập để sửa pháp, đó là bẻ vành khoen, chứ không phải khóa vành khoen để mình cột nối thành dây chuyền vào cái khổ.

Khi không biết quí Phật tử nói tôi sống trong phiền não, đó là quí Phật tử nói thật, tôi ở trong hoàn cảnh phiền não, thì quí Phật tử ở trong phiền não luân, và quí Phật tử không biết bẻ gãy, và quí Phật tử ở trong luân hồi đó.

 Do đó mình biết rồi thì chữ Đại Thiện Tương Ưng Trí là ở đó.  Cho dù mình có tâm thiện đi nữa nhưng không có trí là mình cứ nhìn nhận sự thật, chứ không biết bẻ, không biết giải thoát.

Tôi biết tôi có phiền não, nhưng tôi không có ở trong đó nữa.

Vô Minh duyên Hành, rồi Hành trở lại Vô Minh, thật ra nó là chung nguyên chỉ là Nhân Quả thôi.

"Cửu huyền thất tổ nội ngoại hai bên, ông bà cha mẹ hòa giác" chứ đâu phải một đời, thế thì bảy đời trở lại với mình đây là cái duyên, mà người trở lại là một người khác, bữa nay làm vua mai làm hoàng hậu, bữa khác làm lính, có khi làm con chuột, con mèo, con chim.

Nếu không có duyên thì không trở lại, chứ mình không thể nói là mình không biết, mà mình không có trí thôi, đừng có chủ quan với trạng thái vô minh của mình.

Chính chỗ đó mình sống trong trạng thái lúc nào cũng phải có trí, còn không là ở trong nhân quả này.

a person of mature wisdom man = sapañño = người hữu phước = bậc hữu trí thuần thục

pañño = trí tuệ

 sapañño = người hữu phước = bậc có trí

sakkāya diṭṭhi nếu kaya ditthi thì khác nhưng có chữ sa đằng trước thêm phụ âm k --> sak,  sakkāya diṭṭhi thì nó lại khác.

sa = hữu

kāya = thân

diṭṭhi = kiến

sakkāya diṭṭhi  là hữu thân kiến

Trong tiếng Pali chữ sapañño dịch ra tiếng Anh mình hiểu nghĩa Pali thì mình dịch tiếng Anh nó sát với pháp hơn. Khi người ta nói kāya diṭṭhi là người có thân kiến, mình nói "tôi  có thân kiến" thì phải sakkāya diṭṭhi, còn mình chỉ người khác thân kiến thì không dùng chữ sa, mình nghĩ mình có thì mới nói sakkāya diṭṭhi, mình nhìn người này người kia mình nói người này còn thân kiến, người kia còn thân kiến chứ mình không nói người này hữu thân kiến, người kia hữu thân kiến là mình nói dư.

Vậy thì khi mình nói mình còn phiền não không ? Mình nói tôi còn có phiền não thì nói sakilesa, nói tôi ở trong phiền não, tôi còn phiền não.  Nhưng khi có trí, trí tuệ này là mature, nó thuần thục rồi, nó sắc bén rồi, nó chín muồi rồi thì mình sẽ thấy là tôi biết phiền não chứ tôi không có ở trong phiền não.  Điểm danh phiền não gì mình nói được nhưng mình không có trong đó. Thì người đó đang ở trong trạng thái luân vatta, một cái luân hồi. 

 Khi ta học pháp Paṭiccasamuppāda ta tìm được nhân và quả, cái đó là nhân quả nó có vòng giây luân hồi samsara-vatta có 3 vòng giây hết Nghiệp Báo rồi tới Phiền Não rồi tới Dị Thục Quả không bao giờ hết, mà trong 3 luân liên kết nhau quay vòng vòng và xiết chặt nhau và nó cuốn hút chúng sanh lọt trong đó.

Như vậy, khi mình nói mình là người nhị nhân, tức là mình thiếu trí, mình chỉ có 2 nhân vô tham, vô sân.  Khi mình nói mình là người nhị nhân là mình thiếu trí thì mình ở trong trạng thái nhị nhân này mình đang ở trong trạng thái mình ở trong luân.

Ví dụ, người ta nói số bà coi chừng tháng này v.v.... cái mình về mình ôm cái đó mình ngồi đó, thì mình ở trong đó, mình có trong đó.  

Do đó, khi người ta nói mình là người nhị nhân, hay mình học pháp rồi mình nghiệm lại mình biết mình là người nhị nhân thì mình không ở trong đó.

Vậy thì, khi mình đã học Vô Minh duyên Hành, Sư nói theo Kinh Tạng, thì bây giờ 'không biết mà làm' là Vô Minh duyên Hành, mình xem câu đó là thành ngữ 'không biết mà làm' cái gì cũng không biết mà làm, không chịu dừng lại, không nghĩ suy mà làm những điều thiếu trí, thì việc làm đó gọi là Vô Minh duyên Hành.

Từ bây giờ trước khi làm việc gì thì mình phải nghĩ suy.

Tại vì mình biết rồi, mình không có Vô Minh duyên Hành nữa. Mình là người nhị nhân mình biết rồi thì mình không hành động của người nhị nhân nữa.

Nên phải cẩn thận, Vô Minh duyên Hành, mà còn không thì Hành duyên Vô Minh, mình nhìn thấy mình, nhìn thấy người, mình thấy được hết.

Câu thứ 2, Sư gợi ý, Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức.  Như vậy thì cái Hành này là mới trong tác ý thôi chứ chưa có hành động, cái thức này nó mới ra.  

Mà cái thức nó duyên qua Danh Sắc thì Danh Sắc này nó mới tạo tác nghiệp báo, cái đó phải nghiệm ra. Chứ đừng nói Vô Minh duyên Hành tức là hành động ra kết quả rồi. Không phải, nó mới đang Hành Uẩn thôi, nó chưa qua tới Thức, cho dù là hành động này, cái ý nghĩ này còn đang nằm trong ý, nó sẽ làm hành động này để nói ra lời là Ngữ Hành, nhưng nó còn đang trong Hành, Thức nó mới ra.

Đọc cho kỹ chứ đừng phán quyết liền là mình nhìn không đúng với Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh. 

Vô Minh duyên Hành, nói anh có tâm gì, anh hành động gì, là mình không biết Hành duyên Thức, rồi nói qua Thức duyên Danh Sắc, Danh pháp rồi Sắc Pháp. 

Chính do đó, Hành này nằm trong Tâm Sở Tư trong chiều hướng nó đi của Vô Minh tác hành hay là dẫn dắt, chứ chưa tới Thức.

Có 7 Hành với 86 Hành (xem phần trích dẫn ở cuối bài)

Tại sao mới Vô Minh duyên Hành thôi, mà Hành còn duyên Thức, rồi Thức duyên Danh Sắc, rồi Danh Sắc mới duyên Lục Nhập. 

Thì tới phần duyên Lục Nhập là 6 căn, 6 trần, tức là nội ngoại bắt đầu là tiếp xúc. Xúc rồi mới Lục Nhập. Rồi duyên Xúc, mới Lục Nhập thôi chưa xúc, nó mới đối diện thôi chưa xúc, chưa bắt, Xúc rồi duyên Thọ cũng chưa bắt nữa, Thọ duyên Ái là mình mới bắt được. 

Nên mình phải đọc cho kỹ, và con đường đó mình biết mình không lọt vô, và mình biết người ta, mình sửa người ta, mình giúp người ta được. 

Khi mình nói Vô Minh duyên Hành là mình bắt đầu chuẩn bị, chứ không phải lo lắng, không lo lắng cho mình không lo lắng cho người. Bắt đầu mình chuẩn bị, thì cái đó với trạng thái đó là người đó có Đại Thiện Tương Ưng Trí, còn không thì mình lọt vô quỹ đạo. 

Thì khi mình Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, nó liên tục chạy theo con đường của nó.

Hữu duyên Sinh, tức là một chúng sinh mới hay là một nghiệp báo mới, hay là một phiền não mới, hay một luân hồi mới. Sinh có nhiều nghĩa. 

 Rồi sinh bắt đầu già lão bệnh hoạn phiền não khổ đau trong đó. Những cái đó là những chặng đường Thủ duyên Hữu, Thủ duyên Sinh, Sinh rồi bắt đầu lão hoại tử là phiền não sinh.

Như vậy thì mình nói ngược lại Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Vô Minh. 

- Hành duyên Thức, Thức duyên Hành

Mình nhìn chúng sinh, con đường họ đang hành động, mình nhìn được 2 chiều.

Mình nhìn mình, mình đang sống trong đây, mình nhìn được 2 chiều; chiều suôi với Đại Thiện Tương Ưng Trí mình biết. Chiều ngược với Đại Thiện Tương Ưng trí mình biết, mình mới ra, mình tập được cái đó, mình đọc mình hiểu được mình mới nhìn chúng sinh khác mới được.

Thí dụ. Một người đang nói, mình đang nghe người đó đang nói, thì người đó đang ngữ hành, mà ngữ hành này là người đó đang nói là đang tạo ra hay là đang tác ý tạo ra ngữ hành, tạo ra thức để mà nói hay là đang hiện bày ra một cái Danh Sắc của con người đó, thì mình tìm ra được.

Thí dụ.  Người đang nói.

Nếu nói người đang nói này, thì họ có Lục Nhập, hay là đang có Xúc. Mình nói cái nào cũng được. 

Thí dụ như: Người đang nói với người nghe.

Bây giờ mình nhìn, mình đứng mục kích, mình thấy người này đang nói người kia đang nghe.

Thì bây giờ mình muốn nói cái này là:

Người đang nói ----------------> Người đang nghe

 Lục Xúc (Lục Nhập)                  xúc

40.28 hay người đang nói là Thức của họ làm việc, đằng trước Thức là Hành,  Thức duyên Danh Sắc

      Hành -<-----Thức ------> Danh Sắc.

để hình 02-41.36



Nếu mình nói Lục Xúc mà duyên cho xúc, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ.

Bây giờ Sư nói phần họ có Tâm Thức thì họ nói, thì Danh Sắc này nếu họ nói trong Pháp như Đức Phật Ngài nói Pháp, Ngài không nói tôi ta của Ngài, còn người thường, người thế gian, mình đây cũng vậy, nếu mình không nói trong Pháp thì có cái tôi cái ta của mình, còn nếu không thì nó chỉ là danh Pháp thôi, và ngữ của mình nói ra là sắc Pháp thôi, sắc Tâm thôi.

Người ta nói với Tâm Thức, thì nhìn lại Tâm Thức này mà Ý Hành của họ, Ngữ Hành của họ, hay là Thân Hành của họ, hay Phi Phúc Hành của họ, hay Phúc Hành của họ nó tạo tác ra Tâm Thức này, thì nó mới ra cái tôi cái ta, nó không nằm trong Pháp.

Nhìn là mình nhìn vô Pháp, người đang nói họ đang có Thức, thì cái Thức họ đang nói trong cái Hành của họ, Ý của họ đang nói cho cái Thức của họ, Ngữ họ đang Hành trong cái Thức của họ, Thân của họ nói trong cái Thức của họ, hay là họ nói trong Phi Phúc Hành, hay là họ nói Phúc Hành. Từ cái Thức của họ là mình nhìn ra được. 

Thì họ đang làm là cái Quả từ cái Nhân, rồi từ cái Quả sẽ là Nhân và nó sẽ cho ra cái Quả khác.

Nhân <--------  Quả ----------> Quả

                     Nhân

Thí dụ. Người đang nói trong Pháp, thì họ đang nói trong Phúc Hành làm duyên cho Thức, từ Tâm Thiện họ nói ra, nhưng họ không biết cái này là cái nhân cái quả, hay là họ không biết cái phước hay tội, họ cứ nói theo máy móc như con vẹt, thì mình nói đó là trạng thái của nghiệp báo họ làm như một hành động, 

Mình tìm ra được hết, chính mình cũng vậy. Khi mình nghe người ta nói, hay mình đang nói mà mình nghiệm lại là mình nói với Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, hay mình nói với Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, thì mình tìm ra được cái đó.

Từ đây mình nhìn mình thấy được hết. Danh Sắc, Ái, Thủ, Hữu, nó ra được hết với cách nhìn của Liên quan tương sinh (paṭiccasamuppāda)

Nếu quí Phật tử không đi theo Đại Thiện Tương Ưng Trí thì đi trong vòng khoen này và mình không biết đầu nguồn nó ở đâu.

Nên người mà không biết Pháp họ mới nói: "Tiền tiền vô thủy hậu hậu vô chung", không biết khởi đầu lúc nào và không biết kết cục khi nào hết.  Nhưng khi Đức Phật Ngài dạy mà mình hiểu được Pháp rồi thì mới "tiền tiền vô thủy" mình không biết cái khởi nguyên nhưng mình biết cách kết thúc.

Thí dụ.  

- Nếu  ở trong trạng thái Lục Nhập để sắp sửa đi tới Xúc.

- Lục Nhập duyên Xúc, rồi Xúc duyên Thọ, mà quí Phật tử đứng ngay trong Lục Nhập, quí Phật tử đã 6 căn tiếp xúc 6 trần rồi mà sắp sửa tạo ra một cái Xúc để ra cái Thọ ra cái Thủ, Hữu, thì quí Phật tử dừng lại liền, tại vì mình biết Lục Nhập này đằng trước là cái Pháp của một Vô Minh làm gốc trở lên thì ngừng lại liền.

- Chứ còn đi vô nữa thì nó vô Xúc, rồi Xúc duyên Thọ, rồi nó ra nữa.

Bây giờ trở lại.  Trong mấy khóa tu Sư nói làm cái gì mình phải dùng trí lực chứ không dùng thể lực, tức là mình làm trạng thái gì, Đại Thiện Tương Ưng Trí, chứ không phải làm với tập khí thói quen, ngồi xuống cũng phải có trí, đứng lên cũng phải có trí, ngồi niệm cũng phải có trí, mình đứng lên mình đổi oai nghi cũng phải có trí, còn không là Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc.

Thì con đường đi nó như vậy, nếu nó lập đi lập lại thì mình sẽ đi trong 3 luân hồi giống như con chuột bạch lọt trong trái banh nó quay hoài không có ra, và ngồi một hồi thì phiền não, một chút xíu nữa thì cảm thấy đau do nghiệp báo tạo ra nên cứ trong luân hồi này hoài.

Còn ngay khi Thọ lên rồi mà Thọ này là Thọ của Đại Thiện Tương Ưng Trí, cái Thọ này từ Vô Minh dẫn tới Thọ mình phải ngừng lại, chứ không phải Thọ này để cho nó sinh ra, tất cả mình phải dừng lại.

Đại Thiện Tương Ưng Trí chỉ lập đi lập lại có một chút thôi, đọc lại chi pháp Tâm Thiện có luôn, nó làm duyên cho Tâm Thiện luôn, mà nó ra cái nghiệp của nó cái quả của nó và trong đó là Quả của tạo tác Vô Minh.

Do đó, mình mới thẩy bài paṭiccasamuppāda cái giá trị là mình làm sao thấy được duyên sinh duyên hệ của vòng khoen Vô Minh duyên Hành cuốn mình vô trong 3 luân này, và đó trong cái khoen nào ở bất cứ trong 12 vòng khoen ở trong bất cứ giai đoạn nào  mà đã nằm trong 3 luân; Nghiệp Báo Luân, Phiền Não Luân, Dị Thục Quả Luân là không thoát ra được.

Ngay khi trong Thọ mà gốc của nó từ Vô Minh đi lên là chết.  Khi mình có Hữu, có Sinh Hữu, có Nghiệp Hữu, Dục Hữu, Sắc Hữu, Vô Sắc Hữu.  Nó có Hữu, cái Hữu đó mà của cái Thủ của Vô Minh duyên Hữu cũng là cái chết.

Người ta hỏi mình có Hữu không ? 

- Tôi có, 

Hữu gì ?  

- Tôi đang Dục Hữu, tôi còn trong dục giới tôi có Dục Hữu, nhưng tôi không đi theo con đường của Vô Minh duyên Hành, thì mình mới tách ra.

Còn ở trong Dục Thủ, do đó mới bào chữa; mình sống trong cõi Dục Giới thì làm sao thoát khỏi được cái dục này được, ai cũng bị dục chi phối mà, thế là họ buông, họ đi theo Phiền Não Luân với một cái Nghiệp Báo Luân của Dị Thục Quả của họ đang mang.  

Nên người ta vẫn nói; số nghèo đi đến xứ mô cũng nghèo, nó không thay đổi được, bị chìm trong đó không ra được.

Người mẹ dạy con là đời công bằng, nếu con chịu khó kiên trì nhẫn nại, còn không số nghèo đi đến xứ nào cũng nghèo, tức là mang số phận nghèo đi. Ngay cả mình là người nhị nhân mình đâu có nhìn nhận mình là người nhị nhân, mình có thể vượt qua được mà, mình làm được mà, và mình làm được, còn không thì thôi. mình phải vượt lên, mình phải thay đổi hoàn cảnh của mình.

Khi biết được hoàn cảnh mình là mình phải bẻ gãy cái hoàn cảnh của mình, chứ không phải mình ngồi an phận rồi than thở về hoàn cảnh đó.  Đó gọi là Đại Thiện Tương Ưng Trí, còn an phận và than thở trong hoàn cảnh đó là Liên Quan Tương Sinh trong 3 Luân.

Do đó khi học về Liên Quan Tương Sinh mình ở góc nào là mình phải biết góc đó và mình biết cách của nó, vậy muốn bẻ cái nào và cách nào mình bẻ.

Do đó khi mình đọc bài Biên Niên Xử, Ngài Mingun nói tất cả vị Bồ Tát bậc Chánh Giác, Ngài nói tất cả các vị Bồ Tát hạnh nguyện Toàn Giác đi trên con đường Tứ Chánh Cần, bất thiện nào chưa sanh đừng cho sanh, bất thiện nào đã sanh diệt nó đi, thiện nào chưa sanh phải cho nó sanh, thiện nào sanh rồi phải cho nó tăng trưởng.

Mình ở trong qũi đạo của vô minh này trong tam luân này thì mình phải đi con đường Tứ Chánh Cần và đứng ở góc độ nào là mình phải chặn đầu tiên nhất là đừng có tạo nữa và bắt đầu mới diệt, chứ không bao giờ ở giữa cái này mà vẫn còn để cái cửa để nó tạo ra là không có lối thoát nữa, cách diệt Liên Quan Tương Sinh là vậy.

 Tứ Chánh Cần:

1) Bất thiện - chưa sanh

2) Bất thiện - đã sanh

3) Thiện - chưa sanh

4) Thiện - đã sanh

Khi quí Phật tử đứng trong chuỗi bất luận chỗ nào trong Liên Quan Tương Sinh, thí dụ đang trong trạng thái Thọ làm duyên Ái, mà trước Thọ là Xúc.  Khi mình biết được mình ở trong điểm Thọ thì mình dùng Tứ Chánh Cần bẻ.  Thí dụ như đứng ở Xúc thì mình dùng Tứ Chánh Cần bẻ, nếu đứng ở Ái thì dùng Tứ Chánh Cần bẻ.

Trong Tứ Chánh Cần, Bất Thiện chưa sanh, Bất Thiện đã sanh, Thiện chưa sanh, Thiện đã sanh, thì cái nào mà mình biết nhiều, cái nào mà mình biết rõ và biết chính xác và khả năng biết thì mình mới bẻ được.

Với Bất Thiện nào đã sanh và Thiện nào đã sanh, mình đưa lên bàn cân  để biết  Bất Thiện nào đã sanh và Thiện nào đã sanh cái nào rõ nhất, thói hư tật xấu của mình mình biết, tánh tốt nào của mình.

Trong 2 vế, vế bất thiện nào mình đã có và vế thiện nào mình đã có, cái nào mình biết rõ nhất, mình hiểu mình nhất.

 Mình đang ở trong Thọ, Thọ Hỉ về thân về tâm, Thọ Lạc về thân về tâm mình biết, thì sau khi có Thọ Hỉ về thân hay về tâm nó sẽ đi lên Ái thì Ái đó mình biết  như thế nào, thì lúc đó mình dùng Tứ Chánh Cần đừng cho nó sanh Ái lôi cuốn mình, rồi mình mới ngừng lại trong cái này rồi mình diệt trừ cái nhân tạo ra cái Thọ để cho mình không bị cuốn lôi tạo tác thì mới ra được Tứ Chánh Cần.

Vậy thì khi bất kỳ cái nào mình đưa 12 khoen, ngay khi ở khoen Già, Đau, Chết thì mình biết là đằng trước là Sinh, từ cái Sinh đi tới Già, Đau, Chết , mà Già, Đau, Chết này nó tạo ra Vô Minh ở kiếp sau nữa, thì ngay lúc này mình đang ở Già, Đau, Chết, mình không muốn rớt xuống Vô Minh, mình cũng không bị ảnh hưởng Sanh chi phối, thì mình phải dùng Tứ Chánh Cần bẻ gãy, không có pháp nào khác hơn.

Trên con đường tu tập bẻ 12 vành khoen này chỉ có Tứ Chánh Cần thôi và quí Phật tử không bao giờ đi hết Tứ Chánh Cần được, nếu mà đi hết Tứ Chánh Cần là chết trong trạng thái Vô Minh duyên Hành, chỉ đi Thiện Chánh Cần thôi, chứ không đi hết, Thiện nằm trong Đại Thiện Tương Ưng Trí.

Ở trong bất cứ khoen nào, khi mình Già, Đau, Chết là cái cửa sanh trở lại Vô Minh, đường luân hồi, sự tái sanh sẽ trở lại với mình thì lúc đó mình đi Tứ Chánh Cần là mình phải nỗ lực trong cái Thiện và mình không truy hoài pháp Thiện mình đã có và mình chỉ nghĩ tới cái Thiện mình đang có và mình vun bồi cái Thiện đang có đó để mình làm Thiện đó.

 Nếu mình rơi trong giòng suối nước.  Nếu trong suối nước đó mà mình vùng vẫy là gãy tay gãy chân, mình phải suôi xuống tới đáy rồi thì búng (bơi) ngang vô bờ chứ mà bơi ngược lên là gãy tay gãy chân.  Thì khi cô đang ở trong Già, Đau và Chết chuẩn bị con đường tái sinh patisandhi (thức tái sinh) thì mình chỉ nằm trong Thiện Chánh Cần thôi, chứ không nghĩ tới Bất Thiện Chánh Cần, mình nghĩ rằng "với Bất Thiện Chánh Cần mình biết rồi mình không làm nữa, mình không hối hận vì đã làm bất thiện" sự suy nghĩ này trong giờ phút già đau chết là mình Vô Minh duyên Hành, chỉ được ở trong Thiện Chánh Cần thôi.

Do đó, khi ở trước cửa tử người ta không muốn có một Vô Minh trở lại trong cái Sanh để mà họ luân hồi trong Nghiệp Báo Luân hay Phiền Não Luân hay Dị Thục Quả là ngay lúc đó họ phải Tứ Chánh Cần cái Thiện nhiều (Thiện nào chưa sanh thì cho sanh, Thiện nào đã sanh thì cho phát triển) không chễnh mạng được.

 Bây giờ ở trong Thọ thì biết cái Ái sẽ tới, mà Thọ này là nó có bao nhiêu là Xúc có bao nhiêu.  Người ta chửi nhiều nhiều chừng nào thì Thọ có nhiều, có Xúc nhiều và Ái lên nhiều, một chuỗi dài.  Nhưng mà không,  ta không bị động, lúc bấy giờ lấy Thiện Chánh Cần chứ không nằm trong Bất Thiện.

Ananda thấy người ta chửi mắng Đức Phật sốt ruột nên thỉnh Đức Phật qua làng khác, Ngài nói: "Này Ananda nếu đi cả thế gian này người ta cứ tiếp tục chửi Như Lai thì đi đâu nữa" Ngài nói câu đó Ananda hết câu trả lời và hết khuyên Ngài đi đâu.  Rồi Đức Phật một lần Ngài nói với Angulimala: "ta đã đứng lại rồi, người còn chưa đứng, ngươi còn chạy".

Do đó, quí Phật tử phải biết nếu chạy theo Bất Thiện thì quí Phật tử chưa đứng, nhưng chạy theo Thiện là quí Phật tử đứng lại với trạng thái Bất Thiện ngưng tác động, tức là Bất Thiện ngưng tạo tác thì là Thiện.

Người ta hỏi bẻ Liên Quan Tương Sinh bằng cách nào ? Bằng Tứ Chánh Cần trong trạng thái Thiện Chánh Cần và mình cố gắng không tạo Bất Thiện nữa thì mới có đủ thì giờ mới đủ khả năng bẻ cái nhân Sanh của nó. Đó là cách tu Liên Quan Tương Sinh.

Tứ Chánh Cần không tạo tác mới đủ để mà diệt cái nhân, đứng ở góc độ nào cũng vậy.

 Đứng về vấn đề Thời Kāla.  

Khi mình đang ngồi ở đây mà mình bị người ta chửi, ngay Thời Kāla này, thì mình mới nói cái này là cái nhân của quá khứ, giờ nhân hiện tại quả này giờ tôi đang ngồi đây.  Nếu mình biết cái đó thì mình dừng lại, nhưng người ta có 3 thời, tôi còn không đứng lại, tôi còn tạo tác, tôi có vị lai nữa.  Thì vừa cái hiện tại đây có cái vị lai mà cái vị lai cái hiện tại đây nó cắt cái quá khứ. 

 Mình chạy cái hiện tại, không cắt được quá khứ mà không chặn được vị lai.

Mình không trả hết nghiệp được, mẹ Sư nguyện trả hết nghiệp, Ngài Tịnh Sự nói ta không trả nổi, bao nhiêu lúa gạo ta ăn của người nông dân ta nguyện trả hết, trả không nổi, mình không trả nổi quá khứ.  Nhưng mà cho quả trổ sanh mình chặn ở đây và cái quả nó không có, cái nhân mình nhìn thấy mình diệt nó được.

Do đó, quí Phật tử nhớ khi đi Pháp Hành, khi pháp nghịch nó đến thì chạy pháp nghịch là mình chết, phải tính và phải giải quyết thì nó mới hết, ở góc độ nào cũng vậy, khi ngồi thiền ở trong Thọ, cảm thọ đau mình không cho chạy qua Ái, khi mình đổi oai nghi là đã có cái Ái nó lên, thì Ái nó không thúc đẩy được mình thì bắt đầu mình quay lại nhìn Xúc thì mới nhìn được nó, đứng ở góc nào cũng được hết.

Vô Minh duyên Hành nó mới là trong tác ý thôi, và biết được nhân này có quả này thì nó sẽ tiếp tục ra nhân và quả khác nữa, mình ngừng ở đó thì được, chứ nếu Hành duyên Thức rồi mình phải cẩn thận, Tâm bắt đầu hoạt động, mà Tâm chưa hoạt động mà nó duyên Danh và Sắc, là Danh pháp và Sắc pháp nó tạo tác luôn, thân hành, ngữ hành, ý hành luôn trong 3 cái.  Sắc Thân, Tâm Thức, 2 cái phối hợp thành Danh Sắc này thì nó lại ra nữa.  Mà chưa nữa, nó chỉ là tích lũy ra một khối rồi thì nó bắt đầu để cho 6 căn tiếp xúc 6 trần.

Ngài Ananda hỏi Đức Phật khi thấy người phụ nữ thì mình làm sao ?

Đức Phật nói:  Đừng cho tiếp xúc.

Nếu như thấy tướng chung tướng riêng thì sao ?

Đức Phật nói: Thì diệt nó đi.

Ngài nói đừng cho tiếp xúc, tức là Ngài chặn cái quả nó sẽ tạo ra thì mới bắt đầu tìm được cái nhân.

Chận cái quả trước thì mới  diệt được cái nhân.

Còn mình diệt cái nhân mà mở cửa cho quả trổ nữa là nó có lỗ thoát nó chạy.

Mình có một đứa con gái mà có mấy thằng con trai đến nhà, mình làm mẹ làm cha thì mình làm sao.  Chính cái đó mới thấy khi  ở trong Thọ thì không cách nào mình ngưng được Ái nếu mà không có Tứ Chánh Cần, có Thọ là Ái nhảy ra liền, Tâm rất nhanh, nó lẹ hơn ánh sáng. Và khi có Xúc thì có Thọ liền, cô không ngăn được Xúc mà nói không cho Thọ. Như lưỡi khoan Khi lưỡi khoan mà khoan sắt hay khoan đá cái lưỡi khoan nóng lên, tại vì nó có xúc thì nó có Thọ.  Bây giờ mình nói không cho Thọ lên, chuyện đó là không có.

Khi có Thọ là sẽ có Ái thì mình ngưng cái Ái và mình bắt đầu quay trở lại mình ngưng cái Xúc. Còn mình nói ngưng từ đầu là mình tìm lại quá khứ là tìm lại cái Bất Thiện, vì Bất Thiện từ  Xúc nó mới ra Thọ, mình lấy Thiện để chặn Ái thì mới ngưng được và mình quay trở lại bất thiện này đừng cho tạo hay là đừng cho nó tác động, cách đó mình mới ra được Liên Quan Tương Sinh.

 Như vậy thì khi đang trong Ý Hành mà bởi Vô Minh thì phải biết là nếu mình không ngưng trong Ý Hành này, chứ mình không tìm ra Vô Minh mà không ngưng trong Ý Hành nó sẽ gây ra Thức, mình ngưng đừng cho Thức sanh, Ý Hành đang lên thì mình đừng cho Thức  sanh rồi mình quay trở lại coi Vô Minh .

Có Thọ rồi hay mình đang ngưng Ái thì bắt đầu ngưng Ái đừng để nó lôi cuốn rồi trở lại cái Xúc, chứ còn quay lại mà tìm  cái Xúc trong khi Ái nó đang ngầm ngầm lên là khó diệt nó, lúc đó là lưỡng đầu thọ địch ./.


-------------------------------------------------------

(1) Về Liên quan tương sinh (paṭiccasamuppāda, q.v.), trong Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo. XVII nói về 3 luân:

1. Nghiệp Báo Luân (kamma-vatta)  hành và hữu. bao gồm các nghiệp hình thành và quá trình nghiệp (mối liên kết thứ 2 và thứ 10);

2. Phiền Não Luân (kilesa-vatta) vô minh, ái, thủ, bao gồm vô minh, tham ái và thủ (mối liên kết thứ 1, thứ 8 và thứ 9); 

3. Dị Thục Quả Luân (vipāka-vatta) thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-ai. , bao gồm thức, tâm và thân, 6 xứ, ấn tượng, cảm giác (mối liên kết thứ 3-7). So sánh xem sơ đồ paṭiccasamuppāda .

----------------------------------------

 Hành có 7 Hành với 86 Hành

 trích trong

Chú Giải BỘ PHÂN TÍCH

(Vibhanga Atthakathā)

Nguyên Tác Pāli: Bhadantācariya Buddhaghosa

Bản Anh Ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli

Bản Việt Ngữ: Tỳ khưu Thiện Minh


 619. Chúng tạo thành pháp hữu vi (S iii 87), chính vì thế chúng là những hành. Hơn thế nữa các hành lại có hai đặc tính, cụ thể là, 

(a) các hành có vô minh làm duyên và 

(b) các hành được truyền lại trong bản văn Pāli với từ “các hành”. 

Về điểm này, (a) lại có ba hành, cụ thể là (a) tác ý thiện, phi tác ý thiện và bất động hành, 

và lại có ba loại [hành], cụ thể là, thân hành, khẩu hành và tâm hành,

 cả sáu loại hành này do vô minh làm duyên, [135] và toàn bộ sáu hành này chỉ đơn giản là tư thiện và (volition) bất thiện hiệp thế. Nhưng có bốn [hành], cụ thể là, 

(i) hữu vi hành (saṅkhata-saṅkhāra), 

(ii) tối vi hành (abhísaṅkhata-saṅkhāra),

(iii) tác động hành (abhisaṅkharaṇa-saṅkhāra) 

(iv) cần thắng hành (payogābhisaṅkhāra), 

là bốn loại hành được truyền đạt lại trong các bản văn Pāli với từ “các hành.”

620. Về điểm này, (i) toàn bộ các pháp có nhân duyên được khẳng định trong các đoạn như là: aniccā vata saṅkhārā (“các hành đều là vô thường”) ( D. i. 157; S o 158) là “hữu vi hành” (ii) Các sắc pháp và vô sắc thuộc ba cõi được khởi sanh từ nghiệpđược gọi với tên như vậy trong bản diễn giải, “tối vi hành”; những hành này bao gồm trong đoạn: các hành đều là vô thường, nhưng không có ví dụ điển hình nào được truyền lại trong các bản văn Pāli ta tìm thấy được một cách riêng biệt. (iii) Nhưng tư (volition) thiện và bất thiện thuộc ba cõi lại được gọi là “tắc động hành”. Được tìm thấy nơi các đoạn như sau: “Hỡi các vị tỳ khưu, người này với vô minh do nghiệplại hình thành được một tác ý thiện.” (S ii 82) Nhưng thân và tâm tinh tấn được gọi là “cần thắng hành” điều này được truyền xuống trong các bản văn trong các đoạn sau: “ Do xung lượng lôi kéo họ đã đi rất xa, và đứng đờ ra như bị trời trồng” (A. i 112)

621. Và không những chỉ có những loại hành này mới được truyền lại trong các bản văn thông qua từ “hành” mà thôi như trong các đoạn sau: “Hỡi bạn Visāka, vị Tỳ Khưu nào đã nhập thiền diệt thọ và tưởng, trước tiên các khẩu hành cũng diệt, sau đó đến thân hành, rồi cuối cùng là tâm hành” (M. I 302) Chẳng còn hành nào không gồm (i) hữu vi hành.


03 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- Vô Minh duyên Hành- HT Sán Nhiên giảng ngày 30 tháng 11, 2024

  03 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- Vô Minh duyên Hành  - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024 Minh Hạnh đã nghe để học và, x...