Thursday, June 12, 2025

02 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024

 02 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh-  - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "02" - Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Vô Minh duyên Hành

Vô Minh duyên Hành và Hành duyên Vô Minh.

Thi dụ:

-  Vô Minh duyên Hành, vì không biết mà làm là Vô Minh duyên Hành. 

- Rồi làm  mình không biết cái quả này xảy ra gì, nghĩa là Hành duyên Vô Minh

Devadatta (Đề Bà Đạt Đa)  không biết mà ganh tỵ với Đức Phật hay ganh tỵ với Ngài Xá Lợi Phất, ông phá hòa hợp Tăng, lăn đá chảy máu chân Phật, đó là ông Vô Minh duyên Hành, nhưng hành động của ông làm dẫn tới Vô Minh, ông không biết mà làm thì hành động đó sẽ dẫn ông trở lại Vô Minh, chứ không được sáng suốt.

Ngài Tịnh Sự dịch: Chúng sanh già chết khổ sầu, bởi do pháp lậu dẫn đầu vô minh.

Học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh có 2 phương pháp:

1)  phương pháp thứ nhất là về kinh tạng,

2)  phương pháp thứ 2 là Phát Thú Paṭṭhāṇa.

Kinh Tạng nói pháp chế định, 

Phát Thú Paṭṭhāṇa chỉ nói pháp Siêu Lý, biết pháp Siêu Lý mình mới nắm được.

khi nói tới Paṭiccasamuppāda là có A thì có B, có B thì có C, mình có thể nói ngược lại C có thì B có, mà có B thì có A, đi suôi rồi đi ngược lại.  

Đức Phật Ngài nói có 4 pháp từ đầu đi tới cuối, rồi từ cuối trở lên đầu, rồi từ giữa đến cuối, từ giữa đến đầu, mỗi cái nó có ý nghĩa của nó.

Vô Minh duyên Hành thì nói ngược lại là Hành duyên Vô Minh.

Nếu nói 3 pháp là Nghiệp Báo Luân, Dị Thục Quả Luân, Phiền Não Luân.

Nếu nói 3 thời là Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai là nói theo Kinh Tạng.

Thì dụ mình nói, nhân quá khứ cho quả hiện tại, nhân hiện tại cho quả vị lai. 

Ngài Nāgasena nói với Vua Milinda có 3 điều không thành tựu khi tụng kinh Thánh Hộ Trì Paritta, Ngài Nāgasena nói theo Nhân và Quả theo duyên.

1) Thứ nhất, tụng như con vẹt

2) Thứ hai, làm nghiệp ác làm. Việc ác mà làm rồi thì tụng không có hiệu quả.

3) Thứ ba, phiền não, khi mình đang tụng mà mình bị phiền não

Mình tập nhìn pháp,  Đó là 3 điều không thành tựu khi tụng kinh Paritta.

Bây giờ mình nói phần Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh có 3 điều:

1) Thứ nhất là, Nghiệp Báo Luân.

2) Thứ hai là, Dị Thục Quả Luân.

3) Thứ ba là, Phiền Não Luân.

 khi tụng kinh mà tâm đang phiền não tham, sân, si, hôn trầm, thụy miên là tâm không thanh tịnh thì tụng không có hiệu quả vì đang có phiền não luân.

Theo cách của Ngài Nāgasena nói với vua Milinda mình cũng áp dụng được qua Liên Quan Tương Sinh, mình phải biết cách vận dụng như vậy.

Như vậy, khi Vô Minh duyên Hành mà mình sống ở trong 3 luân này là mình đang ở trong Vô Minh duyên Hành, mình đang làm cái đó ở loại luân nào mình phải biết.

Khi mình làm Vô Minh duyên Hành mà trong trạng thái của Nghiệp Báo Luân thì mình biết do kiết sử và tập khí của mình sinh ra nó bắt đầu làm lại, nó là Vô Minh duyên Hành, nó không sửa được, cái nghiệp nó đi tới như vậy.  Rồi khi nó đang ở trong trạng thái sinh ra do cái nghiệp của nó, nó đang làm với trạng thái Vô Minh duyên Hành thì nó đang làm cái đó là một trạng thái phiền não chi phối và nó sẽ để lại quả báo của một cái Hành duyên Vô Minh.

Mình phải tập nhìn như vậy thì mình áp dụng mới được.

Bây giờ nói 3 Thời:

- Quá Khứ ---> tri đắc

- Hiện Tại ----> knowing

- Vị Lai  ------> seen

Mỗi một thời mình đều biết hết, những cái này thì  mình phải biết.

Quá khứ, hiện tại, vị lai, thì nếu nói 3 thời thì mình biết mình trong thời nào ?  

Nếu người ta hỏi: Hiện bây giờ bạn đang ở thời nào ? Thì mình trả lời là : Tôi đang ở thời hiện tại.

Người ta hỏi trong 3 thời; quá khứ, hiện tại, vị lai, bạn đang ở thời nào ?  Minh trả lời chơn ngôn, sự thật : "Tôi đang ở thời hiện tại", chứ không thể nói : "Tôi đang ở trong thời quá khứ", hay không thể nói : "Tôi đang ở trong thời vị lai".

Nhưng nếu nói cái đó là mấy cô chỉ biết cái pháp hiện tại thôi, nhưng khi học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh, không cho phép cô nói : "Tôi đang ở thời hiện tại" và cô không được nói : "Tôi đang ở trong thời quá khứ", mà phải nói "Những gì tôi đang có đây là tôi biết là quả báo của quá khứ, và nếu như tôi không dừng lại ở đây với những trạng thái liễu tri của tôi biết được đây tôi sẽ có quả báo ở vị lai", thì người đó là người có trí, người đó qua khỏi Vô Minh duyên Hành.  

Còn người Vô Minh duyên Hành họ không biết được 3 thời, họ chỉ biết một thời, chính thời đó họ không biết được nhân quả. 

Nên khi mình học thì mình biết là không có pháp tự nhiên được, nó có duyên sinh duyên hệ hết.

Bữa nay học Liên Quan Tương Sinh thì phải biết thời mà mình đang có, thời đó là mình phải chịu trách nhiệm nhân quả của 3 thời, và phải cẩn thận trong 3 thời chứ không thể nói tôi chỉ biết một thời.

Vậy thì áp dụng, khi mình đang có quả dị thục thì mình phải biết nó là kết quả của một Nghiệp Báo và nó sẽ cho ra Nghiệp Quả một phiền não.

Thí dụ. Mình biết mình là người Nhị Nhân hay người Tam Nhân không ? Mình không biết, bây giờ học mình biết mình là người Nhị Nhân.  

Thì người Nhị Nhân này là Dị Thục Quả.  Họ sinh ra đã là người Nhị Nhân, đó là Dị Thục Quả, thì Dị Thục Quả là nghiệp báo.  Và khi mình không hiểu được cái này thì nó cho mình một phiền não, mặc cảm, buồn tủi, xấu hổ.

Do đó, quí Phật tử tu tập hành pháp Liên Quan Tương Sinh với Đại Thiện Tương Ưng Trí thì mới được.

 Khi mình đi vào trong một pháp thì phải biết nhìn, mình bị nhân quả của 3 thời. Từ đó mình sẽ bắt cho được kiết sử của mình, cái tập khí của mình, cái thói quen của mình; mặc cảm tự ti, tôi ta của mình, buồn tủi hay xấu hổ, mặc cảm, hay là mình biết tách ra được những phiền não đó sẽ tác động chi phối mình trong hành động trong lời nói.

Thí dụ như mình nghiệm ra được trong thời gian tu tập, nghiên cứu Phật Pháp, nghe qua kinh điển, được làm người nhị nhân, mình phiền não hay là mình buồn tủi, hay mình mặc cảm xấu hổ, lúc đó mình đang ở trong Liên Quan Tương Sinh, còn nếu mình có Tương Ưng Trí Đại Thiện là mình sửa được.

Sư dẫn chứng: Vua Trời Đế Thích Saka, Ngài là Thiên Chủ của các Chư Thiên, nhưng hào quang của Ngài kém hơn các vị Chư Thiên làm phước đức hơn Ngài, Ngài nhìn thấy các vị Chư Thiên có hào quang sáng hơn Ngài là Ngài núp.  Nhưng khi Ngài hiểu được tại sao hào quang của Ngài kém hơn các vị Chư Thiên khác, thì Ngài mới nghiệm ra là từ trước đến giờ Ngài làm việc xã hội chứ Ngài không làm việc Tam Bảo.  Đầu tiên Ngài bị phiền não lắm khi Ngài nhìn thấy các vị Chư Thiên hào quang sáng hơn Ngài, chứ Ngài không biết đó là dị thục quả của Ngài, do đó Ngài né tránh, nhưng sau Ngài tìm ra được là tại vì hồi đó Ngài làm việc xã hội như xây nhà thương, sửa đường phố hay giúp đỡ người nghèo, Ngài chỉ làm những cái đó thôi, chứ chưa bao giờ Ngài cúng dường cho Tam Bảo.

Có một vị Chư Thiên họ chỉ cúng dường một giá cháo hay một giá cơm hay một bữa cơm cho một vị Tỳ Khưu một nhà Sư, còn vị Thiên Chủ chỉ cho làng xóm chứ không cho các vị Tỳ Khưu.

Thì Ngài nghiệm ra, Ngài đến gặp bà vợ thứ tư tên là Sujata, người không lo tu tập đến khi chết tái sinh thành con cò. Ngài mới kêu bà vợ thứ tư đi làm phước với Ngài để được hưởng nghiệp lành.

Ngài  tìm ra được là Ngài Kassapa vừa nhập thiền Diệt 7 ngày ra thì Ngài xuống cúng dường liền.  Ngài và bà vợ thứ tư giả thành 2 ông bà già sống ở cuối làng, tại vì Ngài Kassapa có lời nguyện là chỉ độ người nghèo thôi, nên 2 ông bà đứng trong một ngồi nhà ở cuối làng, khi Ngài Kassapa đến đưa bát vô thì 2 ông bà để bát liền.  

Và Ngài thoát ra khỏi 3 pháp ; Nghiệp Báo, Dị Thục Quả, Phiền Não.  Còn nếu như không biết pháp này là mình sẽ sống trong luân hồi hết phiền não, rồi tạo tác nghiệp, rồi có nghiệp báo, rồi mình tạo tác nữa, nghiệp báo rồi phiền não nó quay tròn nên gọi nó là luân, nó xoay chuyển hoài.

Học về Liên Quan Tương Sinh có nhiều kết nối, có nhân, có quả, mình biết mình đứng ở góc độ nào là phải áp dụng liền.

Nếu như học Abhidhamma mà chưa học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh thì mình sẽ nói rằng tôi có luân, tôi đang Phiền Não Luân, hay tôi đang có Nghiệp Báo Luân, hay tôi đang có Dị Thục Quả Luân.  

Con bất hiếu, đó là dị thục quả của tôi, thì ta tìm ra được Dị Thục Quả Luân. Già yếu bịnh đó là Nghiệp Báo Luân. Không có tiền để sống là Phiền Não Luân. Thì quí Phật tử trở lại vòng quanh, tức tốc trở vào vòng quay, thân, ngự, ý, lúc đó quí Phật tử đang nghĩ là mình Vô Minh duyên Hành.

 Cô nói ra, gặp ai tới cô than là Vô Minh duyên Ngữ Hành, còn nếu nói nữa tâm cô đang nghĩ là Vô Minh duyên Phi Phúc Hành, tôi không làm phước nên bây giờ tôi khổ.

Học Paṭiccasamuppāda có 2 cách; một là để mình thấy pháp, hai là để mình tu tập để sửa pháp, đó là bẻ vành khoen, chứ không phải khóa vành khoen để mình cột nối thành dây chuyền vào cái khổ.

Khi không biết quí Phật tử nói tôi sống trong phiền não, đó là quí Phật tử nói thật, tôi ở trong hoàn cảnh phiền não, thì quí Phật tử ở trong phiền não luân, và quí Phật tử không biết bẻ gãy, và quí Phật tử ở trong luân hồi đó.

 Do đó mình biết rồi thì chữ Đại Thiện Tương Ưng Trí là ở đó.  Cho dù mình có tâm thiện đi nữa nhưng không có trí là mình cứ nhìn nhận sự thật, chứ không biết bẻ, không biết giải thoát.

Tôi biết tôi có phiền não, nhưng tôi không có ở trong đó nữa.

Vô Minh duyên Hành, rồi Hành trở lại Vô Minh, thật ra nó là chung nguyên chỉ là Nhân Quả thôi.

"Cửu huyền thất tổ nội ngoại hai bên, ông bà cha mẹ hòa giác" chứ đâu phải một đời, thế thì bảy đời trở lại với mình đây là cái duyên, mà người trở lại là một người khác, bữa nay làm vua mai làm hoàng hậu, bữa khác làm lính, có khi làm con chuột, con mèo, con chim.

Nếu không có duyên thì không trở lại, chứ mình không thể nói là mình không biết, mà mình không có trí thôi, đừng có chủ quan với trạng thái vô minh của mình.

Chính chỗ đó mình sống trong trạng thái lúc nào cũng phải có trí, còn không là ở trong nhân quả này.

a person of mature wisdom man = sapañño = người hữu phước = bậc hữu trí thuần thục

pañño = trí tuệ

 sapañño = người hữu phước = bậc có trí

sakkāya diṭṭhi nếu kaya ditthi thì khác nhưng có chữ sa đằng trước thêm phụ âm k --> sak,  sakkāya diṭṭhi thì nó lại khác.

sa = hữu

kāya = thân

diṭṭhi = kiến

sakkāya diṭṭhi  là hữu thân kiến

Trong tiếng Pali chữ sapañño dịch ra tiếng Anh mình hiểu nghĩa Pali thì mình dịch tiếng Anh nó sát với pháp hơn. Khi người ta nói kāya diṭṭhi là người có thân kiến, mình nói "tôi  có thân kiến" thì phải sakkāya diṭṭhi, còn mình chỉ người khác thân kiến thì không dùng chữ sa, mình nghĩ mình có thì mới nói sakkāya diṭṭhi, mình nhìn người này người kia mình nói người này còn thân kiến, người kia còn thân kiến chứ mình không nói người này hữu thân kiến, người kia hữu thân kiến là mình nói dư.

Vậy thì khi mình nói mình còn phiền não không ? Mình nói tôi còn có phiền não thì nói sakilesa, nói tôi ở trong phiền não, tôi còn phiền não.  Nhưng khi có trí, trí tuệ này là mature, nó thuần thục rồi, nó sắc bén rồi, nó chín muồi rồi thì mình sẽ thấy là tôi biết phiền não chứ tôi không có ở trong phiền não.  Điểm danh phiền não gì mình nói được nhưng mình không có trong đó. Thì người đó đang ở trong trạng thái luân vatta, một cái luân hồi. 

 Khi ta học pháp Paṭiccasamuppāda ta tìm được nhân và quả, cái đó là nhân quả nó có vòng giây luân hồi samsara-vatta có 3 vòng giây hết Nghiệp Báo rồi tới Phiền Não rồi tới Dị Thục Quả không bao giờ hết, mà trong 3 luân liên kết nhau quay vòng vòng và xiết chặt nhau và nó cuốn hút chúng sanh lọt trong đó.

Như vậy, khi mình nói mình là người nhị nhân, tức là mình thiếu trí, mình chỉ có 2 nhân vô tham, vô sân.  Khi mình nói mình là người nhị nhân là mình thiếu trí thì mình ở trong trạng thái nhị nhân này mình đang ở trong trạng thái mình ở trong luân.

Ví dụ, người ta nói số bà coi chừng tháng này v.v.... cái mình về mình ôm cái đó mình ngồi đó, thì mình ở trong đó, mình có trong đó.  

Do đó, khi người ta nói mình là người nhị nhân, hay mình học pháp rồi mình nghiệm lại mình biết mình là người nhị nhân thì mình không ở trong đó.

Vậy thì, khi mình đã học Vô Minh duyên Hành, Sư nói theo Kinh Tạng, thì bây giờ 'không biết mà làm' là Vô Minh duyên Hành, mình xem câu đó là thành ngữ 'không biết mà làm' cái gì cũng không biết mà làm, không chịu dừng lại, không nghĩ suy mà làm những điều thiếu trí, thì việc làm đó gọi là Vô Minh duyên Hành.

Từ bây giờ trước khi làm việc gì thì mình phải nghĩ suy.

Tại vì mình biết rồi, mình không có Vô Minh duyên Hành nữa. Mình là người nhị nhân mình biết rồi thì mình không hành động của người nhị nhân nữa.

Nên phải cẩn thận, Vô Minh duyên Hành, mà còn không thì Hành duyên Vô Minh, mình nhìn thấy mình, nhìn thấy người, mình thấy được hết.

Câu thứ 2, Sư gợi ý, Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức.  Như vậy thì cái Hành này là mới trong tác ý thôi chứ chưa có hành động, cái thức này nó mới ra.  

Mà cái thức nó duyên qua Danh Sắc thì Danh Sắc này nó mới tạo tác nghiệp báo, cái đó phải nghiệm ra. Chứ đừng nói Vô Minh duyên Hành tức là hành động ra kết quả rồi. Không phải, nó mới đang Hành Uẩn thôi, nó chưa qua tới Thức, cho dù là hành động này, cái ý nghĩ này còn đang nằm trong ý, nó sẽ làm hành động này để nói ra lời là Ngữ Hành, nhưng nó còn đang trong Hành, Thức nó mới ra.

Đọc cho kỹ chứ đừng phán quyết liền là mình nhìn không đúng với Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh. 

Vô Minh duyên Hành, nói anh có tâm gì, anh hành động gì, là mình không biết Hành duyên Thức, rồi nói qua Thức duyên Danh Sắc, Danh pháp rồi Sắc Pháp. 

Chính do đó, Hành này nằm trong Tâm Sở Tư trong chiều hướng nó đi của Vô Minh tác hành hay là dẫn dắt, chứ chưa tới Thức.

Có 7 Hành với 86 Hành (xem phần trích dẫn ở cuối bài)

Tại sao mới Vô Minh duyên Hành thôi, mà Hành còn duyên Thức, rồi Thức duyên Danh Sắc, rồi Danh Sắc mới duyên Lục Nhập. 

Thì tới phần duyên Lục Nhập là 6 căn, 6 trần, tức là nội ngoại bắt đầu là tiếp xúc. Xúc rồi mới Lục Nhập. Rồi duyên Xúc, mới Lục Nhập thôi chưa xúc, nó mới đối diện thôi chưa xúc, chưa bắt, Xúc rồi duyên Thọ cũng chưa bắt nữa, Thọ duyên Ái là mình mới bắt được. 

Nên mình phải đọc cho kỹ, và con đường đó mình biết mình không lọt vô, và mình biết người ta, mình sửa người ta, mình giúp người ta được. 

Khi mình nói Vô Minh duyên Hành là mình bắt đầu chuẩn bị, chứ không phải lo lắng, không lo lắng cho mình không lo lắng cho người. Bắt đầu mình chuẩn bị, thì cái đó với trạng thái đó là người đó có Đại Thiện Tương Ưng Trí, còn không thì mình lọt vô quỹ đạo. 

Thì khi mình Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, nó liên tục chạy theo con đường của nó.

Hữu duyên Sinh, tức là một chúng sinh mới hay là một nghiệp báo mới, hay là một phiền não mới, hay một luân hồi mới. Sinh có nhiều nghĩa. 

 Rồi sinh bắt đầu già lão bệnh hoạn phiền não khổ đau trong đó. Những cái đó là những chặng đường Thủ duyên Hữu, Thủ duyên Sinh, Sinh rồi bắt đầu lão hoại tử là phiền não sinh.

Như vậy thì mình nói ngược lại Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Vô Minh. 

- Hành duyên Thức, Thức duyên Hành

Mình nhìn chúng sinh, con đường họ đang hành động, mình nhìn được 2 chiều.

Mình nhìn mình, mình đang sống trong đây, mình nhìn được 2 chiều; chiều suôi với Đại Thiện Tương Ưng Trí mình biết. Chiều ngược với Đại Thiện Tương Ưng trí mình biết, mình mới ra, mình tập được cái đó, mình đọc mình hiểu được mình mới nhìn chúng sinh khác mới được.

Thí dụ. Một người đang nói, mình đang nghe người đó đang nói, thì người đó đang ngữ hành, mà ngữ hành này là người đó đang nói là đang tạo ra hay là đang tác ý tạo ra ngữ hành, tạo ra thức để mà nói hay là đang hiện bày ra một cái Danh Sắc của con người đó, thì mình tìm ra được.

Thí dụ.  Người đang nói.

Nếu nói người đang nói này, thì họ có Lục Nhập, hay là đang có Xúc. Mình nói cái nào cũng được. 

Thí dụ như: Người đang nói với người nghe.

Bây giờ mình nhìn, mình đứng mục kích, mình thấy người này đang nói người kia đang nghe.

Thì bây giờ mình muốn nói cái này là:

Người đang nói ----------------> Người đang nghe

 Lục Xúc (Lục Nhập)                  xúc

40.28 hay người đang nói là Thức của họ làm việc, đằng trước Thức là Hành,  Thức duyên Danh Sắc

      Hành -<-----Thức ------> Danh Sắc.

để hình 02-41.36



Nếu mình nói Lục Xúc mà duyên cho xúc, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ.

Bây giờ Sư nói phần họ có Tâm Thức thì họ nói, thì Danh Sắc này nếu họ nói trong Pháp như Đức Phật Ngài nói Pháp, Ngài không nói tôi ta của Ngài, còn người thường, người thế gian, mình đây cũng vậy, nếu mình không nói trong Pháp thì có cái tôi cái ta của mình, còn nếu không thì nó chỉ là danh Pháp thôi, và ngữ của mình nói ra là sắc Pháp thôi, sắc Tâm thôi.

Người ta nói với Tâm Thức, thì nhìn lại Tâm Thức này mà Ý Hành của họ, Ngữ Hành của họ, hay là Thân Hành của họ, hay Phi Phúc Hành của họ, hay Phúc Hành của họ nó tạo tác ra Tâm Thức này, thì nó mới ra cái tôi cái ta, nó không nằm trong Pháp.

Nhìn là mình nhìn vô Pháp, người đang nói họ đang có Thức, thì cái Thức họ đang nói trong cái Hành của họ, Ý của họ đang nói cho cái Thức của họ, Ngữ họ đang Hành trong cái Thức của họ, Thân của họ nói trong cái Thức của họ, hay là họ nói trong Phi Phúc Hành, hay là họ nói Phúc Hành. Từ cái Thức của họ là mình nhìn ra được. 

Thì họ đang làm là cái Quả từ cái Nhân, rồi từ cái Quả sẽ là Nhân và nó sẽ cho ra cái Quả khác.

Nhân <--------  Quả ----------> Quả

                     Nhân

Thí dụ. Người đang nói trong Pháp, thì họ đang nói trong Phúc Hành làm duyên cho Thức, từ Tâm Thiện họ nói ra, nhưng họ không biết cái này là cái nhân cái quả, hay là họ không biết cái phước hay tội, họ cứ nói theo máy móc như con vẹt, thì mình nói đó là trạng thái của nghiệp báo họ làm như một hành động, 

Mình tìm ra được hết, chính mình cũng vậy. Khi mình nghe người ta nói, hay mình đang nói mà mình nghiệm lại là mình nói với Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, hay mình nói với Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, thì mình tìm ra được cái đó.

Từ đây mình nhìn mình thấy được hết. Danh Sắc, Ái, Thủ, Hữu, nó ra được hết với cách nhìn của Liên quan tương sinh (paṭiccasamuppāda)

Nếu quí Phật tử không đi theo Đại Thiện Tương Ưng Trí thì đi trong vòng khoen này và mình không biết đầu nguồn nó ở đâu.

Nên người mà không biết Pháp họ mới nói: "Tiền tiền vô thủy hậu hậu vô chung", không biết khởi đầu lúc nào và không biết kết cục khi nào hết.  Nhưng khi Đức Phật Ngài dạy mà mình hiểu được Pháp rồi thì mới "tiền tiền vô thủy" mình không biết cái khởi nguyên nhưng mình biết cách kết thúc.

Thí dụ.  

- Nếu  ở trong trạng thái Lục Nhập để sắp sửa đi tới Xúc.

- Lục Nhập duyên Xúc, rồi Xúc duyên Thọ, mà quí Phật tử đứng ngay trong Lục Nhập, quí Phật tử đã 6 căn tiếp xúc 6 trần rồi mà sắp sửa tạo ra một cái Xúc để ra cái Thọ ra cái Thủ, Hữu, thì quí Phật tử dừng lại liền, tại vì mình biết Lục Nhập này đằng trước là cái Pháp của một Vô Minh làm gốc trở lên thì ngừng lại liền.

- Chứ còn đi vô nữa thì nó vô Xúc, rồi Xúc duyên Thọ, rồi nó ra nữa.

Bây giờ trở lại.  Trong mấy khóa tu Sư nói làm cái gì mình phải dùng trí lực chứ không dùng thể lực, tức là mình làm trạng thái gì, Đại Thiện Tương Ưng Trí, chứ không phải làm với tập khí thói quen, ngồi xuống cũng phải có trí, đứng lên cũng phải có trí, ngồi niệm cũng phải có trí, mình đứng lên mình đổi oai nghi cũng phải có trí, còn không là Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc.

Thì con đường đi nó như vậy, nếu nó lập đi lập lại thì mình sẽ đi trong 3 luân hồi giống như con chuột bạch lọt trong trái banh nó quay hoài không có ra, và ngồi một hồi thì phiền não, một chút xíu nữa thì cảm thấy đau do nghiệp báo tạo ra nên cứ trong luân hồi này hoài.

Còn ngay khi Thọ lên rồi mà Thọ này là Thọ của Đại Thiện Tương Ưng Trí, cái Thọ này từ Vô Minh dẫn tới Thọ mình phải ngừng lại, chứ không phải Thọ này để cho nó sinh ra, tất cả mình phải dừng lại.

Đại Thiện Tương Ưng Trí chỉ lập đi lập lại có một chút thôi, đọc lại chi pháp Tâm Thiện có luôn, nó làm duyên cho Tâm Thiện luôn, mà nó ra cái nghiệp của nó cái quả của nó và trong đó là Quả của tạo tác Vô Minh.

Do đó, mình mới thẩy bài paṭiccasamuppāda cái giá trị là mình làm sao thấy được duyên sinh duyên hệ của vòng khoen Vô Minh duyên Hành cuốn mình vô trong 3 luân này, và đó trong cái khoen nào ở bất cứ trong 12 vòng khoen ở trong bất cứ giai đoạn nào  mà đã nằm trong 3 luân; Nghiệp Báo Luân, Phiền Não Luân, Dị Thục Quả Luân là không thoát ra được.

Ngay khi trong Thọ mà gốc của nó từ Vô Minh đi lên là chết.  Khi mình có Hữu, có Sinh Hữu, có Nghiệp Hữu, Dục Hữu, Sắc Hữu, Vô Sắc Hữu.  Nó có Hữu, cái Hữu đó mà của cái Thủ của Vô Minh duyên Hữu cũng là cái chết.

Người ta hỏi mình có Hữu không ? 

- Tôi có, 

Hữu gì ?  

- Tôi đang Dục Hữu, tôi còn trong dục giới tôi có Dục Hữu, nhưng tôi không đi theo con đường của Vô Minh duyên Hành, thì mình mới tách ra.

Còn ở trong Dục Thủ, do đó mới bào chữa; mình sống trong cõi Dục Giới thì làm sao thoát khỏi được cái dục này được, ai cũng bị dục chi phối mà, thế là họ buông, họ đi theo Phiền Não Luân với một cái Nghiệp Báo Luân của Dị Thục Quả của họ đang mang.  

Nên người ta vẫn nói; số nghèo đi đến xứ mô cũng nghèo, nó không thay đổi được, bị chìm trong đó không ra được.

Người mẹ dạy con là đời công bằng, nếu con chịu khó kiên trì nhẫn nại, còn không số nghèo đi đến xứ nào cũng nghèo, tức là mang số phận nghèo đi. Ngay cả mình là người nhị nhân mình đâu có nhìn nhận mình là người nhị nhân, mình có thể vượt qua được mà, mình làm được mà, và mình làm được, còn không thì thôi. mình phải vượt lên, mình phải thay đổi hoàn cảnh của mình.

Khi biết được hoàn cảnh mình là mình phải bẻ gãy cái hoàn cảnh của mình, chứ không phải mình ngồi an phận rồi than thở về hoàn cảnh đó.  Đó gọi là Đại Thiện Tương Ưng Trí, còn an phận và than thở trong hoàn cảnh đó là Liên Quan Tương Sinh trong 3 Luân.

Do đó khi học về Liên Quan Tương Sinh mình ở góc nào là mình phải biết góc đó và mình biết cách của nó, vậy muốn bẻ cái nào và cách nào mình bẻ.

Do đó khi mình đọc bài Biên Niên Xử, Ngài Mingun nói tất cả vị Bồ Tát bậc Chánh Giác, Ngài nói tất cả các vị Bồ Tát hạnh nguyện Toàn Giác đi trên con đường Tứ Chánh Cần, bất thiện nào chưa sanh đừng cho sanh, bất thiện nào đã sanh diệt nó đi, thiện nào chưa sanh phải cho nó sanh, thiện nào sanh rồi phải cho nó tăng trưởng.

Mình ở trong qũi đạo của vô minh này trong tam luân này thì mình phải đi con đường Tứ Chánh Cần và đứng ở góc độ nào là mình phải chặn đầu tiên nhất là đừng có tạo nữa và bắt đầu mới diệt, chứ không bao giờ ở giữa cái này mà vẫn còn để cái cửa để nó tạo ra là không có lối thoát nữa, cách diệt Liên Quan Tương Sinh là vậy.

 Tứ Chánh Cần:

1) Bất thiện - chưa sanh

2) Bất thiện - đã sanh

3) Thiện - chưa sanh

4) Thiện - đã sanh

Khi quí Phật tử đứng trong chuỗi bất luận chỗ nào trong Liên Quan Tương Sinh, thí dụ đang trong trạng thái Thọ làm duyên Ái, mà trước Thọ là Xúc.  Khi mình biết được mình ở trong điểm Thọ thì mình dùng Tứ Chánh Cần bẻ.  Thí dụ như đứng ở Xúc thì mình dùng Tứ Chánh Cần bẻ, nếu đứng ở Ái thì dùng Tứ Chánh Cần bẻ.

Trong Tứ Chánh Cần, Bất Thiện chưa sanh, Bất Thiện đã sanh, Thiện chưa sanh, Thiện đã sanh, thì cái nào mà mình biết nhiều, cái nào mà mình biết rõ và biết chính xác và khả năng biết thì mình mới bẻ được.

Với Bất Thiện nào đã sanh và Thiện nào đã sanh, mình đưa lên bàn cân  để biết  Bất Thiện nào đã sanh và Thiện nào đã sanh cái nào rõ nhất, thói hư tật xấu của mình mình biết, tánh tốt nào của mình.

Trong 2 vế, vế bất thiện nào mình đã có và vế thiện nào mình đã có, cái nào mình biết rõ nhất, mình hiểu mình nhất.

 Mình đang ở trong Thọ, Thọ Hỉ về thân về tâm, Thọ Lạc về thân về tâm mình biết, thì sau khi có Thọ Hỉ về thân hay về tâm nó sẽ đi lên Ái thì Ái đó mình biết  như thế nào, thì lúc đó mình dùng Tứ Chánh Cần đừng cho nó sanh Ái lôi cuốn mình, rồi mình mới ngừng lại trong cái này rồi mình diệt trừ cái nhân tạo ra cái Thọ để cho mình không bị cuốn lôi tạo tác thì mới ra được Tứ Chánh Cần.

Vậy thì khi bất kỳ cái nào mình đưa 12 khoen, ngay khi ở khoen Già, Đau, Chết thì mình biết là đằng trước là Sinh, từ cái Sinh đi tới Già, Đau, Chết , mà Già, Đau, Chết này nó tạo ra Vô Minh ở kiếp sau nữa, thì ngay lúc này mình đang ở Già, Đau, Chết, mình không muốn rớt xuống Vô Minh, mình cũng không bị ảnh hưởng Sanh chi phối, thì mình phải dùng Tứ Chánh Cần bẻ gãy, không có pháp nào khác hơn.

Trên con đường tu tập bẻ 12 vành khoen này chỉ có Tứ Chánh Cần thôi và quí Phật tử không bao giờ đi hết Tứ Chánh Cần được, nếu mà đi hết Tứ Chánh Cần là chết trong trạng thái Vô Minh duyên Hành, chỉ đi Thiện Chánh Cần thôi, chứ không đi hết, Thiện nằm trong Đại Thiện Tương Ưng Trí.

Ở trong bất cứ khoen nào, khi mình Già, Đau, Chết là cái cửa sanh trở lại Vô Minh, đường luân hồi, sự tái sanh sẽ trở lại với mình thì lúc đó mình đi Tứ Chánh Cần là mình phải nỗ lực trong cái Thiện và mình không truy hoài pháp Thiện mình đã có và mình chỉ nghĩ tới cái Thiện mình đang có và mình vun bồi cái Thiện đang có đó để mình làm Thiện đó.

 Nếu mình rơi trong giòng suối nước.  Nếu trong suối nước đó mà mình vùng vẫy là gãy tay gãy chân, mình phải suôi xuống tới đáy rồi thì búng (bơi) ngang vô bờ chứ mà bơi ngược lên là gãy tay gãy chân.  Thì khi cô đang ở trong Già, Đau và Chết chuẩn bị con đường tái sinh patisandhi (thức tái sinh) thì mình chỉ nằm trong Thiện Chánh Cần thôi, chứ không nghĩ tới Bất Thiện Chánh Cần, mình nghĩ rằng "với Bất Thiện Chánh Cần mình biết rồi mình không làm nữa, mình không hối hận vì đã làm bất thiện" sự suy nghĩ này trong giờ phút già đau chết là mình Vô Minh duyên Hành, chỉ được ở trong Thiện Chánh Cần thôi.

Do đó, khi ở trước cửa tử người ta không muốn có một Vô Minh trở lại trong cái Sanh để mà họ luân hồi trong Nghiệp Báo Luân hay Phiền Não Luân hay Dị Thục Quả là ngay lúc đó họ phải Tứ Chánh Cần cái Thiện nhiều (Thiện nào chưa sanh thì cho sanh, Thiện nào đã sanh thì cho phát triển) không chễnh mạng được.

 Bây giờ ở trong Thọ thì biết cái Ái sẽ tới, mà Thọ này là nó có bao nhiêu là Xúc có bao nhiêu.  Người ta chửi nhiều nhiều chừng nào thì Thọ có nhiều, có Xúc nhiều và Ái lên nhiều, một chuỗi dài.  Nhưng mà không,  ta không bị động, lúc bấy giờ lấy Thiện Chánh Cần chứ không nằm trong Bất Thiện.

Ananda thấy người ta chửi mắng Đức Phật sốt ruột nên thỉnh Đức Phật qua làng khác, Ngài nói: "Này Ananda nếu đi cả thế gian này người ta cứ tiếp tục chửi Như Lai thì đi đâu nữa" Ngài nói câu đó Ananda hết câu trả lời và hết khuyên Ngài đi đâu.  Rồi Đức Phật một lần Ngài nói với Angulimala: "ta đã đứng lại rồi, người còn chưa đứng, ngươi còn chạy".

Do đó, quí Phật tử phải biết nếu chạy theo Bất Thiện thì quí Phật tử chưa đứng, nhưng chạy theo Thiện là quí Phật tử đứng lại với trạng thái Bất Thiện ngưng tác động, tức là Bất Thiện ngưng tạo tác thì là Thiện.

Người ta hỏi bẻ Liên Quan Tương Sinh bằng cách nào ? Bằng Tứ Chánh Cần trong trạng thái Thiện Chánh Cần và mình cố gắng không tạo Bất Thiện nữa thì mới có đủ thì giờ mới đủ khả năng bẻ cái nhân Sanh của nó. Đó là cách tu Liên Quan Tương Sinh.

Tứ Chánh Cần không tạo tác mới đủ để mà diệt cái nhân, đứng ở góc độ nào cũng vậy.

 Đứng về vấn đề Thời Kāla.  

Khi mình đang ngồi ở đây mà mình bị người ta chửi, ngay Thời Kāla này, thì mình mới nói cái này là cái nhân của quá khứ, giờ nhân hiện tại quả này giờ tôi đang ngồi đây.  Nếu mình biết cái đó thì mình dừng lại, nhưng người ta có 3 thời, tôi còn không đứng lại, tôi còn tạo tác, tôi có vị lai nữa.  Thì vừa cái hiện tại đây có cái vị lai mà cái vị lai cái hiện tại đây nó cắt cái quá khứ. 

 Mình chạy cái hiện tại, không cắt được quá khứ mà không chặn được vị lai.

Mình không trả hết nghiệp được, mẹ Sư nguyện trả hết nghiệp, Ngài Tịnh Sự nói ta không trả nổi, bao nhiêu lúa gạo ta ăn của người nông dân ta nguyện trả hết, trả không nổi, mình không trả nổi quá khứ.  Nhưng mà cho quả trổ sanh mình chặn ở đây và cái quả nó không có, cái nhân mình nhìn thấy mình diệt nó được.

Do đó, quí Phật tử nhớ khi đi Pháp Hành, khi pháp nghịch nó đến thì chạy pháp nghịch là mình chết, phải tính và phải giải quyết thì nó mới hết, ở góc độ nào cũng vậy, khi ngồi thiền ở trong Thọ, cảm thọ đau mình không cho chạy qua Ái, khi mình đổi oai nghi là đã có cái Ái nó lên, thì Ái nó không thúc đẩy được mình thì bắt đầu mình quay lại nhìn Xúc thì mới nhìn được nó, đứng ở góc nào cũng được hết.

Vô Minh duyên Hành nó mới là trong tác ý thôi, và biết được nhân này có quả này thì nó sẽ tiếp tục ra nhân và quả khác nữa, mình ngừng ở đó thì được, chứ nếu Hành duyên Thức rồi mình phải cẩn thận, Tâm bắt đầu hoạt động, mà Tâm chưa hoạt động mà nó duyên Danh và Sắc, là Danh pháp và Sắc pháp nó tạo tác luôn, thân hành, ngữ hành, ý hành luôn trong 3 cái.  Sắc Thân, Tâm Thức, 2 cái phối hợp thành Danh Sắc này thì nó lại ra nữa.  Mà chưa nữa, nó chỉ là tích lũy ra một khối rồi thì nó bắt đầu để cho 6 căn tiếp xúc 6 trần.

Ngài Ananda hỏi Đức Phật khi thấy người phụ nữ thì mình làm sao ?

Đức Phật nói:  Đừng cho tiếp xúc.

Nếu như thấy tướng chung tướng riêng thì sao ?

Đức Phật nói: Thì diệt nó đi.

Ngài nói đừng cho tiếp xúc, tức là Ngài chặn cái quả nó sẽ tạo ra thì mới bắt đầu tìm được cái nhân.

Chận cái quả trước thì mới  diệt được cái nhân.

Còn mình diệt cái nhân mà mở cửa cho quả trổ nữa là nó có lỗ thoát nó chạy.

Mình có một đứa con gái mà có mấy thằng con trai đến nhà, mình làm mẹ làm cha thì mình làm sao.  Chính cái đó mới thấy khi  ở trong Thọ thì không cách nào mình ngưng được Ái nếu mà không có Tứ Chánh Cần, có Thọ là Ái nhảy ra liền, Tâm rất nhanh, nó lẹ hơn ánh sáng. Và khi có Xúc thì có Thọ liền, cô không ngăn được Xúc mà nói không cho Thọ. Như lưỡi khoan Khi lưỡi khoan mà khoan sắt hay khoan đá cái lưỡi khoan nóng lên, tại vì nó có xúc thì nó có Thọ.  Bây giờ mình nói không cho Thọ lên, chuyện đó là không có.

Khi có Thọ là sẽ có Ái thì mình ngưng cái Ái và mình bắt đầu quay trở lại mình ngưng cái Xúc. Còn mình nói ngưng từ đầu là mình tìm lại quá khứ là tìm lại cái Bất Thiện, vì Bất Thiện từ  Xúc nó mới ra Thọ, mình lấy Thiện để chặn Ái thì mới ngưng được và mình quay trở lại bất thiện này đừng cho tạo hay là đừng cho nó tác động, cách đó mình mới ra được Liên Quan Tương Sinh.

 Như vậy thì khi đang trong Ý Hành mà bởi Vô Minh thì phải biết là nếu mình không ngưng trong Ý Hành này, chứ mình không tìm ra Vô Minh mà không ngưng trong Ý Hành nó sẽ gây ra Thức, mình ngưng đừng cho Thức sanh, Ý Hành đang lên thì mình đừng cho Thức  sanh rồi mình quay trở lại coi Vô Minh .

Có Thọ rồi hay mình đang ngưng Ái thì bắt đầu ngưng Ái đừng để nó lôi cuốn rồi trở lại cái Xúc, chứ còn quay lại mà tìm  cái Xúc trong khi Ái nó đang ngầm ngầm lên là khó diệt nó, lúc đó là lưỡng đầu thọ địch ./.


-------------------------------------------------------

(1) Về Liên quan tương sinh (paṭiccasamuppāda, q.v.), trong Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo. XVII nói về 3 luân:

1. Nghiệp Báo Luân (kamma-vatta)  hành và hữu. bao gồm các nghiệp hình thành và quá trình nghiệp (mối liên kết thứ 2 và thứ 10);

2. Phiền Não Luân (kilesa-vatta) vô minh, ái, thủ, bao gồm vô minh, tham ái và thủ (mối liên kết thứ 1, thứ 8 và thứ 9); 

3. Dị Thục Quả Luân (vipāka-vatta) thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-ai. , bao gồm thức, tâm và thân, 6 xứ, ấn tượng, cảm giác (mối liên kết thứ 3-7). So sánh xem sơ đồ paṭiccasamuppāda .

----------------------------------------

 Hành có 7 Hành với 86 Hành

 trích trong

Chú Giải BỘ PHÂN TÍCH

(Vibhanga Atthakathā)

Nguyên Tác Pāli: Bhadantācariya Buddhaghosa

Bản Anh Ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli

Bản Việt Ngữ: Tỳ khưu Thiện Minh


 619. Chúng tạo thành pháp hữu vi (S iii 87), chính vì thế chúng là những hành. Hơn thế nữa các hành lại có hai đặc tính, cụ thể là, 

(a) các hành có vô minh làm duyên và 

(b) các hành được truyền lại trong bản văn Pāli với từ “các hành”. 

Về điểm này, (a) lại có ba hành, cụ thể là (a) tác ý thiện, phi tác ý thiện và bất động hành, 

và lại có ba loại [hành], cụ thể là, thân hành, khẩu hành và tâm hành,

 cả sáu loại hành này do vô minh làm duyên, [135] và toàn bộ sáu hành này chỉ đơn giản là tư thiện và (volition) bất thiện hiệp thế. Nhưng có bốn [hành], cụ thể là, 

(i) hữu vi hành (saṅkhata-saṅkhāra), 

(ii) tối vi hành (abhísaṅkhata-saṅkhāra),

(iii) tác động hành (abhisaṅkharaṇa-saṅkhāra) 

(iv) cần thắng hành (payogābhisaṅkhāra), 

là bốn loại hành được truyền đạt lại trong các bản văn Pāli với từ “các hành.”

620. Về điểm này, (i) toàn bộ các pháp có nhân duyên được khẳng định trong các đoạn như là: aniccā vata saṅkhārā (“các hành đều là vô thường”) ( D. i. 157; S o 158) là “hữu vi hành” (ii) Các sắc pháp và vô sắc thuộc ba cõi được khởi sanh từ nghiệpđược gọi với tên như vậy trong bản diễn giải, “tối vi hành”; những hành này bao gồm trong đoạn: các hành đều là vô thường, nhưng không có ví dụ điển hình nào được truyền lại trong các bản văn Pāli ta tìm thấy được một cách riêng biệt. (iii) Nhưng tư (volition) thiện và bất thiện thuộc ba cõi lại được gọi là “tắc động hành”. Được tìm thấy nơi các đoạn như sau: “Hỡi các vị tỳ khưu, người này với vô minh do nghiệplại hình thành được một tác ý thiện.” (S ii 82) Nhưng thân và tâm tinh tấn được gọi là “cần thắng hành” điều này được truyền xuống trong các bản văn trong các đoạn sau: “ Do xung lượng lôi kéo họ đã đi rất xa, và đứng đờ ra như bị trời trồng” (A. i 112)

621. Và không những chỉ có những loại hành này mới được truyền lại trong các bản văn thông qua từ “hành” mà thôi như trong các đoạn sau: “Hỡi bạn Visāka, vị Tỳ Khưu nào đã nhập thiền diệt thọ và tưởng, trước tiên các khẩu hành cũng diệt, sau đó đến thân hành, rồi cuối cùng là tâm hành” (M. I 302) Chẳng còn hành nào không gồm (i) hữu vi hành.


Saturday, May 3, 2025

01 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- - HT Sán Nhiên giảng ngày 16 tháng 11, 2024

 01 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh-  - HT Sán Nhiên giảng ngày 16 tháng 11, 2024

Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "01" - Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ. 

Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya

Minh Hạnh

Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh

Vô Minh duyên Hành

Khi nói tới chương trình Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh, chia làm 2 là Paṭicca / samuppāda

Paṭicca = liên quan, liên đới nhau

samuppāda = tương sinh, nương nổ nhau mà sinh ra

Paṭiccasamuppāda là Liên Quan Tương Sinh.

Học Paṭiccasamuppāda  Liên Quan Tương Sinh có 2 phương pháp.

Phương pháp 1, Paṭiccasamuppāda theo Kinh Văn Nikaya:

1)  Mình phải nắm gốc là Nhân và Quả. Và,

2)  Ba thời : Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai

Phương pháp thứ 2, là Pháp Hành (Phát Thú - Paṭṭhāṇa).

 Người không học Phát Thú - Paṭṭhāṇa họ không đi Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh được.

Mâu thuẫn ở chỗ,  Paṭṭhāṇa là bộ thứ 7 phải nằm trên đỉnh, chỗ đó là cùng tột và cuối cùng của Đức Phật, Ngài thuyết lúc đó là trí tuệ Ngài siêu việt, bộ đó phải cuối cùng mới học, nhưng học Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh phải có Phát Thú - Paṭṭhāṇa bổ túc mới nắm được pháp này được, thì đó là sự mâu thuẫn.

Thì phương pháp thứ 2 đi qua:

1) Duyên  Sinh ,  Duyên Hệ, là hệ thống

2) Thời Chuyển Khởi Pavatti nó không cho đứng lại một chỗ, nó là thời của Paṭṭhāṇa hay của Paṭiccasamuppāda là thời Chuyển Khởi, mình không nói được quá khứ, hiện tại, vị lai vì đó là thời chế định.  

Mình nói bây giờ là 1 giờ thì nó đã sai rồi, nó đã chạy rồi.  

Còn nếu nói quá khứ thì nói quá khứ thôi, kiếp quá khứ, ngày hôm qua, ngày hôm trước, năm ngoái, thì là quá khứ rồi.  

Nhưng thời Chuyển Khởi Pavatti Kāla nó luôn di động, nó chuyển hoài không đứng yên.  Ngài Tịnh Sự gọi là thời Bình Nhật.  Chuyển khởi là nếu mình nói 1 phút thì nó đã qua mấy giây rồi nó đã trở thành quá khứ rồi.

Do đó, khi nói về Paṭiccasamuppāda thì mình nói Nhân và Quả.

Thí dụ 12 Nhân Duyên, có 4 pháp nhìn Paṭiccasamuppāda :

- Thuận,

- Nghịch,

- Nghịch

- Thuận, 

Từ dưới đi lên, từ trên đi xuống.

1/ Vô Minh duyên Hành.  Nếu nói theo Kinh Văn. Thì Vô Minh là Nhân, Hành là Quả. Có Nhân thì có Quả nó nối tiếp nhau tương sinh.

Nhưng nếu mình nói từ dưới đi lên như: sanh, già, đau, chết, tới Vô Minh, thì Hành là Nhân, Vô Minh là Quả.

Nếu mình đi từ dưới lên thì có Hành thì mới có Vô Minh.

 Còn nếu từ trên đi xuống thì có Vô Minh thì có Hành.

Mấy cái đó mình phải tìm ra được cái pháp, đó là Kinh Văn, mình phải tìm ra được pháp đó thì mình mới lý giải được mới giải thích được, mình mới hiểu được.

Nói bên Phát Thú  Paṭṭhāṇa

Vô Minh duyên Hành không nói Nhân Quả, mà nói duyên nào làm nên Hành.

Nó là duyên, cái điểm duyên nó mới thấy ra được cái chi phối của cái duyên này, nó không trách Vô Minh, không trách Hành, mà trách Dị Thời Nghiệp, trách Thường Cận Y, nó điểm Dị Thời Nghiệp, điểm Thường Cận Y, nó bẻ 2 cái duyên đó thì 2 cái này sụp liền.

Còn nói theo Kinh Văn thì trách Vô Minh tạo ra Hành.

Nhưng đứng về Duyên thì mình thấy là như vậy.  

Do đó:

-  Khi nói về Paṭiccasamuppāda mà về Kinh Văn thì phải biết Vô Minh là cái gì ?

-  Còn nếu nói về Duyên Sinh Duyên Hệ thì Dị Thời Nghiệp là gì mà làm ra Vô Minh ?  Dị Thời Nghiệp là cái gì làm ra Hành ? 

Thường Cận Y là cái gì làm ra Vô Minh ? Thường Cận Y là gì mà làm ra Hành ?

Vì vậy, học 2 cái đó mình phải nắm bắt được.

1) Bây giờ mình nói theo Kinh Văn

Vô Minh làm duyên cho Hành, bây giờ cho thí dụ thì không được, vì Vô Minh là không biết là si mê là sao ra Hành, vậy mình ở đâu mà có nó, thì không thí dụ được.

Bây giờ mình tìm ra, nếu Vô Minh duyên Hành, có anh Vô Minh và vì Vô Minh là gốc mới ra cái ngọn là Hành thì mình tìm Vô Minh không ra.

Nếu nói về Kinh Văn thì Vô Minh duyên Hành không ra do đó nó không nghiệm được cái vận hành của pháp làm cho mình bị Phiền Não Luân, Dị Thục Quả Luân, rồi Nghiệp Báo Luân, không tìm ra được.

Nhưng với người nắm được Kinh Văn mà nắm rõ được Nhân Quả họ phải lý giải được Vô Minh là gì. Thì Vô Minh có 8, rồi coi mình ở đâu mình mới ra được Hành.

Vô Minh duyên Hành:

Vô Minh có 8 :

1) Bất tri khổ đế

2) Bất tri tập đế

3) Bất tri diệt đế

4) Bất tri đạo đế

5) Bất tri nhân đã qua (quá khứ)

6) Bất tri quả hiện tại

7) Bất tri nhân quả liên quan

8) Bất tri Liên Quan Tương Sinh

11.48 Như vậy thì mình ở đâu. 

Thí dụ, mình đang ngồi thiền, đang hành thiền

Hành có 6 :

1) Phi Phúc Hành

2) Phúc Hành

3) Bất Động Hành

4) Thân Hành 

5) Ngữ Hành

6) Ý Hành.

Bất tri nhân đã qua, bất tri quả hiện tại, bất tri nhân quả liên quan, bất tri liên quan tương sinh

Thứ nhất, khi mình nói Phi Phúc Hành, tức là mình làm chuyện gì không có phước, đó là Phi Phúc Hành, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói về giới hay về ngữ là nói dối, nói đâm thọc. Ba về thân, bốn về lời, ba về ý thuộc về Phi Phúc Hành.

Thứ 2, Khi nói về Phúc Hành làm duyên bởi Vô Minh. Vô Minh làm duyên cho Phúc Hành là khi làm phước bố thí, trì giới trong Thập Phúc Hành Tông hay đang làm trong Thập Thiện Nghiệp, hay đang làm trong Thập Ba La Mật nhưng quí Phật tử không có Đại Thiện Tương Ưng Trí mà có Vô Minh làm ra Hành thì cũng là Vô Minh duyên Hành.

Nên chữ Đại Thiện Tương Ưng Trí Sư nhắc đi nhắc lại hoài là vậy. Tại vì nếu làm trong Hành (có 6 Hành ) đây mà làm bởi Vô Minh thì coi như là hỏng hết, mình phải coi, do đó chữ Đại Thiện Tương Ưng Trí là phải nằm lầu trong đầu của mình, mình không thể rời nó, mình không thể quên nó, luôn luôn nó với mình phải là một.

Thí dụ, bố thí cho một người nghèo, hay bố thí cho một nhà Sư, hay làm một việc phước thiện thì làm với Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí hay làm với Vô Minh, mình không biết.  Nên trong khóa tu Sư nói nếu cô làm bằng thể lực thì khác với trí lực thì khác, ngồi xuống bằng trí lực đứng lên bằng trí lực, nếu không thì nó là kiết sử của thể lực, cũng là ngồi thiền hành thiền nhưng là Bất Động Hành, là Hành bởi Vô Minh.

Do đó, khi ta nói theo Kinh Văn thì trong 8 Vô Minh mình phải định được mình ở trong vị trí nào thì mình mới thấy được Hành của mình là Quả của Nhân Vô Minh mà mình đang tạo tác vì thiếu Tương Ưng Trí mới tìm ra được, chứ còn không là không được, mình cũng không nhìn ra được mình ở đâu.

Giờ mình nhìn trong 6 cái Hành mình làm bởi Vô Minh thì mình biết, có khi mình thiếu niệm do đó mình không có trí, do đó mình làm một cách máy móc hay là theo tập khí, nó là Dị Thời Nghiệp, là Thường Cận Y,  2 cái Duyên này mình lại không nói, tại vì trong Kinh Văn không có nói tới Duyên này.   

Qua tới Paṭṭhāṇa mới nói do Dị Thời Nghiệp thói quen thường hay làm, Thường Cận Y là do gần gủi mà sinh ra làm theo cái đó là máy móc thì mới ra được cái lý.

Mà khi qua Dị Thời Nghiệp, Thường Cận Y Duyên không có "Tôi, Ta" trong đó, chỉ là Pháp Duyên sinh ra thôi. 

Trong 6 Hành :

-  3 Hành trên là pháp: 1) Phi Phúc Hành, 2) Phúc Hành, 3) Bất Động Hành

- 3 Hành dưới liên quan đến con người mình : 4) Thân Hành, 5) Ngữ Hành, 6) Ý Hành.

Thân hành có 3, phi phúc hành. Thân hành, phúc hành. Thân hành, bất động hành.

Ngữ hành có 3, phi phúc hành. Ngữ hành, phúc hành. Ngữ hành, bất động hành.

Ý hành có 3, phi phúc hành. Ý hành, phúc hành, Ý hành, bất động hành.

Khi lời mình nói ra là phi phúc hành, lời mình nói ra phúc hành, lời mình nói ra có bất động hành.

Ý mình nghĩ ra là phi phúc hành, ý mình nói ra là phúc hành, ý mình nói ra là bất động hành.

Khi những cái đó mà mình còn ở trong vòng luẩn quẩn của Vô Minh thì mình chưa có cái gì gọi là thoát ra được, nên Đức Phật nói là mình trong vòng quay một là Dị Thục Quả, hai là Nghiệp Quả hay là phiền não quả. 

 Ngữ hành có bất động hành, thí dụ mình ngồi niệm mình niệm hơi thở vô, hơi thở ra, đó là ngữ hành, mình không đụng vô phúc hành, mình đang hành thiền.

Hồi xưa vị hành giả đi thiền hành, họ ngữ hành trong bất động hành, họ đọc họ niệm chứ không nghĩ trong tâm, "dở, bước, dở, bước" họ đọc từ miệng họ như vậy gọi là bất động hành, nó không là phúc hành, không là phi phúc hành

Ý Hành : Phúc, phi phúc, bất động.

Ý hành phúc hành là ý nghĩa tới việc làm thiện

Ý nghĩ làm việc ác xấu là ý hành phi phúc hành

Ý nghĩ tới việc hành thiền thôi, chuyện tu tập Chỉ và Quán thôi là ý hành bất động hành.

Ý hành thuộc loại nào ? Phúc, Phi Phúc, Bất Động, mình thuộc loại nào ?

Ý hành mà trong Bất Động Hành. Thì Bất Động Hành có 2 con đường đi tới. 

- Nếu nói con đường Thiền Chỉ thì nó về Sắc Giới, Vô Sắc Giới.

- Còn nếu như Ý Hành mà về Bất Động Hành đi con đường Thiền Quán thì đi tới Đạo và Quả.

 Như vậy thì Ý Hành mà đi theo con đường Thiền Chỉ thì lúc đó Ý Hành của mình mình niệm cái gì, mình niệm thầm trong miệng đề mục của Chỉ Quán. Thí dụ như niệm về đề mục hơi thở là Ý Hành Bất Động Hành, mình ngồi niệm hơi thở vô hơi thở ra tức là không có nói ra ngoài, không cho ai biết, đó là Ý Hành Bất Động Hành. 

Mình ngồi niệm không nói ra ngoài mà không cho ai biết, mình ngồi niệm hơi thở vô ra, Ý Hành Bất Động Hành về hơi thở, đề mục về hơi thở là Chỉ.

Nhưng nếu nói là Ý Hành mà thuộc về Quán thì là Danh Sắc hay là Sanh Diệt, đó là Ý Hành Bất Động Hành.

Nếu mình đang Bất Động Hành mà mình lạc ra ngoài thì đó là Phi Phúc Hành.

Thì làm cái này mà nếu làm trong Đại Thiện Tương Ưng Trí thì con đường đó mình đi mình biết sắp đặt hết chứ không bị nó dẫn dắt.

Còn nếu như làm bởi Vô Minh , như  ngồi thiền mà ngồi với ý theo dõi hơi thở về Chỉ Quán mà trong trạng thái thiếu trí thì Vô Minh chen vô dẫn ý hành đi thì phải xác định là lúc đó ông Thiền Sư nhìn vô người hành giả này đang thiếu trí rồi, không Tương Ưng Trí mà đang đi trong Vô Minh duyên Hành, ông Thiền Sư phải gỡ ra được, ông phải nhìn được người hành giả đó nằm ở đâu trong 8 cái bất tri, ông gỡ ra được.

 Nếu mình thiếu trí mình lọt vô Vô Minh duyên Hành, thì mình xác định được mình nằm ở đâu, ông Thiền Sư cũng vậy thôi, ông xác định được, ông nói quí Phật tử đi vậy không đúng rồi, phải gỡ người đó ra, chỉ cho ở chỗ đó, người hành giả biết gỡ ra liền.

Bữa nay Sư chỉ luôn để quí Phật tử biết mà tự gỡ.  Khi thiếu trí mà đang hành thì đó là Vô Minh duyên Hành thì quí Phật tử nằm ở đâu, mình nói phải  chi pháp, phải nói có lý. Còn nói ngược trở lại, Hành mà sinh ra Vô Minh thì cái đó ra sao nữa. Chính chỗ đó Kinh Văn bị tắc nghẽn.

Khi người ta nói cô hành sai rồi tức là mình đang ở trong hành mà sai là do Vô Minh, tại vì mình không biết, thì mình nói chỉ tôi cái sai đi thì người ta chỉ cho mình, 

Mấy cô cũng vậy, khi cô ngồi 1 giờ thấy không có kết quả là mình biết mình làm sai rồi thì đó là Vô Minh duyên Hành, giờ mình tìm cái Vô Minh, thì mình coi cái Hành của mình.

Khi ông Thầy nói hay mình ngồi mình niệm thấy mình sai là mình phải tự sửa liền chứ để nó đi luôn hoài là không được.

Khi có Đại Thiện Tương Ưng Trí thì Tương Ưng Trí sẽ dẫn Hành của mình trong Ý Hành đi Bất Động Hành này đi đến kết quả, còn không thì Vô Minh dẫn mình đi Hành thì có kết quả sai lầm. Mình có Đại Thiện Tương Ưng Trí thì mình đi theo Tương Ưng Trí, Minh sanh thì Vô Minh diệt.

 Khi mất Tương Ưng Trí là mình đang thất niệm, khi có niệm là có Tương Ưng Trí lại, Tương Ưng Trí hổ trợ cho niệm.

Tất cả mọi việc mình đang làm từ phúc hành, phi phúc hành, bất động hành, từ thân ngự ý mà thiếu trí mà làm là do Vô Minh. Xin giới cũng vậy, ngồi thiền cũng vậy, 3 cái Giới Định Tuệ mà thiếu trí mà mình đang làm là Vô Minh duyên Hành.

Người ta nói cô đang làm là Vô Minh duyên Hành, vậy người ta nói Vô Minh của cô là gì, cô đang có Vô Minh gì trong cái duyên Hành này.  Minh nói trong Liên Quan Tương Sinh, mình đang hành mà không có trí thì Hành này do Vô Minh và mình Vô Minh nào trong 8 Vô Minh này, mình kể ra được là mình biết được.

Chính mấy cái đó mình mới nhìn thấy là khi mà đời sống hàng ngày thân, ngữ, ý mình không có ngừng hành động. Hành là hành động là tạo tác, không nói thì nghĩ suy, rồi ý nghĩ suy rồi mình nói ra, nhưng trong cái đó mình Vô Minh duyên Hành hay là trí hành động này mình phải xác định không là chết hoài, nói tiếng tu cũng vậy, mà tu mà không có trí thì cái tu đó cũng Vô Minh duyên Hành, nói, nghĩ, hành động, lên chùa, về nhà, trong phúc hành, phi phúc hành, bất động hành, thì mình phải biết.

Nếu mấy cô kiểm soát chặt chẽ mấy cái đó là an toàn, nên mới gọi là bẻ gẫy.

Kinh Văn khó lắm, kiến thức nhiều đâu có hay đâu mà phải nắm cốt lõi mới đúng. Nếu mà Phát Thú, Dị Thời Nghiệp, Thường Cận Y, 2 cái đó nó thường xuyên xuất hiện.

 Vô Minh duyên Hành là Dị Thời Nghiệp định nghĩa là nghiệp quá khứ nó hình thành ra bây giờ trước khi ta tạo thói quen, thói quen tạo lại ta, Dị Thời Nghiệp đó làm cái đó một cách Vô Minh thôi bởi Dị Thời Nghiệp thôi, bởi môi trường mình sống, ở gần người nào, ở cùng hoàn cảnh nào thì mình làm theo cái đó thì gọi là Thường Cận Y, mà không có "Tôi, Ta", nghiệp nó tạo hay là do cận y tạo, chứ mình không có tôi ta trong đó.

 Còn cái này là cô thấy cô có trong đó, mình có tôi ta trong đó và mình bị niệm trong đó và mình không ra được

Do đó, một ông bác sĩ không bao giờ định bệnh một bệnh nhân chỉ do khám mà phải làm nhiều thử nghiệm mới có thể xác định được căn bệnh.

 Nếu nói Kinh Văn ta nói Nhân với Quả.  Khi cô đang Ý Hành mà Bất Động Hành mà cô bị mất niệm thì là cô đã bất tri Nhân (không biết cái nhân) đã qua mà có cái Quả đang hiện bày. Bất tri Nhân đã qua làm Vô Minh duyên Hành.

Nhân gì mà Quả là Vô Minh ? Nhân thiếu niệm, là mình thiếu trí. Bất tri Nhân đã qua làm Vô Minh duyên Hành, Ý Hành Bất Động Hành là cách Vô Minh. Bất tri nhân đã qua nên Quả hiện tại của mình là hành sai.  Thì ông Thầy nhìn thấy quả hiện tại này là sai thì ông mới tìm được nhân đã qua người này không có, ông mới gỡ nhân đã qua này bổ túc vô thì quả này sửa được.

Người mà Kinh Văn nhiều đôi khi bị tán trí.

 Quả hiện tại đang hiện bày thì nhân đã qua không nhận ra là do thiếu trí. Nếu làm có trí có niệm thì không có Vô Minh duyên Hành.

Do đó, từ đây khi mình làm gì sai mình biết cái nhân đã qua của mình là gì ? Thiếu niệm, thiếu trí, thiếu kinh nghiệm, thiếu người chỉ dẫn, mình phải ra được cái đó, những nguyên nhân nào thì mình bắt đầu điểm danh vô.

Giờ Sư đi ngược lại.

Khi mình hành sai cho dù là thân, khi mà ngữ hành  nói ra mà phúc hành mà bởi vô minh, mình nói mà mình không biết cái nghĩa mình nói, mình nói mà không hiểu được cái quả sẽ cho mình cái gì cho dù mình đang nói có phước, mình nói như thuyết pháp như giảng đạo hay chỉ dẫn người ta con đường tốt, đó là ngữ hành trong phúc hành bởi vô minh, mà mình không biết.

Thí dụ như một ông Thầy giảng pháp, ông nói ngữ hành phúc hành nhưng ông làm ngữ hành phúc hành này nhưng không có hiệu quả thì đó là vô minh duyên hành thì vô minh này ông ở góc nào.

Ngữ hành của mình là phải trí 

Ngay cả khi mình làm thân hành trong phúc hành cũng phải làm phúc hành với Tương Ưng Trí chứ không phải làm thân hành ra phúc hành này với một cái vô minh.

 Khi nói tới hành phải liệt kê ra 6 hành : 1) Phi Phúc Hành, 2) Phúc Hành, 3) Bất Động Hành, 4) Thân Hành, 5) Ngữ Hành, 6) Ý Hành.

Mà nếu hành mà bởi vô minh thì phải liệt kê 8 vô minh : 1) Bất tri khổ đế, 2) Bất tri tập đế, 3) Bất tri diệt đế, 4) Bất tri đạo đế, 5) Bất tri nhân đã qua (quá khứ), 6) Bất tri quả hiện tại, 7) Bất tri nhân quả liên quan, 8) Bất tri Liên Quan Tương Sinh.

Rồi mới điểm danh trong 8 bất tri này mình nằm ở đâu, xác định được, chứ không phải đi hết 8 cái luôn.

 Hiện tại mình đang làm là cái Quả thì tìm được Nhân, Liên Quan Tương Sinh là Nhân với Quả.

Mình đi gặp người bạn mình hay người quen của mình, ông ngồi than, ông ngữ hành, ông nói thân hành của ông, mấy bữa nay đau nhức mình mảy, thì ông đang có thân hành, ông đang có ngữ hành mà trạng thái không biết tại sao, thì đó là vô minh.

Mình nghe câu nói chuyện "tôi nhức đầu, tôi đau đớn, tôi mệt mỏi mà không biết tại sao" thì đó là đang thân hành vô minh.

 Người ta tới mình người ta than khổ, là ngữ hành phi phúc hành, họ than khổ thì đâu có phước gì là thiện, họ nói trạng thái bất thiện của họ với tâm sân, tâm khổ đau, nhất là người bệnh nằm trong bệnh viện cứ kêu đồ ăn là ngữ hành phi phúc hành, mình nghiệm ra là vô minh duyên hành, rồi mình mới gỡ ra.

Cái gì mình cũng gỡ được nếu mình biết pháp của nó thì mình gỡ được chính xác. Còn mình không biết thì mình làm theo thói quen của mình.

Nhân bất học bất tri lý, mình không học thì không biết gì hết, giờ mình biết rồi mình không làm chuyện đó mình không ở trong vòng khoen này, mình không có trong sự vận chuyển của giòng luân hồi này, là mình bẻ gãy được.

Mỗi một ý, lời, thân, đều là nghiệp, Sư chưa kể tới phần 3 luân, việc mình đang làm đó nó là Dị Thục Quả của mình đang làm, hay là mình đang làm đó là trong phiền não, hay là cô đang làm giữa một cái nghiệp báo.

Gỡ được hết chỉ cái Vô Minh duyên Hành thôi, học 2 cái khoen thôi là quí Phật tử gỡ được hết trong thân, ngữ, ý, trong pháp phúc hành, phi phúc hành, bất động hành, trong 8 bất tri mình gỡ được hết cho mình, cho chúng sanh, người hữu duyên với mình. Và không có gì mình không biết, không có gì mình tắt nghẽn không giải thích được, giải thích cho mình, giải thích cho người một cách chính xác.

Minh phải biết khi nói tới nhân và quả thì anh thiếu nhân quá khứ, anh để mất cái nhân rồi do đó quả nó ra mình phải chịu. Mình phải tìm ra được cái nhân, mình chỉ ra cái nhân là người ta sửa được, quả sẽ không trở lại

Còn khi người ta đang khổ, người ta đau khổ, mình tìm được cái bất tri của họ.

Nên Pháp Đức Phật Ngài chỉ cần nắm Pháp thôi, nắm Liên Quan Tương Sinh thôi thì Ngài nhìn ra một chúng sinh với loại nào hiện bày Pháp gì Ngài nắm được hết, và Ngài độ được chúng sinh đó.

Khi họ thân hành mà họ không nói thì mình xác định họ trong thân hành, chứ họ nói mà mình nhìn cái đó là thân hành không được, họ nói thì đó là ngữ hành.

Thí dụ họ quét lá là họ đang thân hành thổi lá với Tương Ưng Trí hay Vô Minh duyên Hành.

 Quí Phật tử không thể để cho người ta dẫn dắt mình, mình biết mình, mình biết họ nữa thì không thể nào họ nói được mình, và có thể mình sửa họ được.

Cách tu của mình là vậy. Mới có một chi pháp Vô Minh duyên Hành.

Một vị Phật Độc Giác không thuyết pháp, Ngài tự tu, tự chứng, tự giải thoát, Ngài không thuyết pháp, không có đệ tử, không có giảng dạy, Ngài chỉ có thân giáo thôi.

Trong tích truyện, một vị Phật Độc Giác tên là Sonaka Ngài độ vua Arindama, Ngài nói 8 pháp lợi ích của một người ẩn sĩ ở trong rừng già Hi Mã Lạp Sơn. Ngài nói vì ông vua Arindama ưa thích mùi khoái lạc dục lạc dục trần, không thích vấn đề tu hành. 

Thì vị Phật Độc Giác  Sonaka  mới nói câu thí dụ : giống như con quạ đuổi theo một con voi đã chết sình dưới giòng sông đang trôi ra ngoài biển, con quạ bay theo nó nghĩ ăn được thịt con voi chết này, nhưng ra tới ngoài biển khơi nó bị chết theo con voi." 

Tức là Vô Minh duyên Hành, con quạ hành động của nó là nó nghĩ sẽ ăn được thịt con voi chết nên nó rượt theo mà nó không biết hành động đó là Vô Minh, vì nó thiếu trí. Do đó, Ngài mới giải thích cho ông vua :"nếu như ngài chạy theo dục lạc dục trần của thế tục này là ngài cũng như con quạ đuổi theo xác chết con voi trôi ra ngoài biển cả là ngài toi mạng luôn.

Mình cũng vậy, nếu như trong thân hành, ngữ hành, ý hành mà trong Vô Minh thì mình cũng sẽ mất luôn mạng sống trong kiếp sống này chịu luân hồi.

Do đó, khi mình hiểu đọc câu kinh mình hiểu được cái nghĩa thì mình mới thấy là mình không được Vô Minh duyên Hành. Tức là từ đây về sau là mình không Hành bởi Vô Minh, mà là Hành bởi Tương Ưng Trí thôi.

Ông Long Vương nằm dưới đáy hồ, hồi xưa ông là sadi làm biếng, ông thầy kêu ông quét lá sân chùa, ông quét lá xong ông ra giòng sông nguyện: "Cái phước mà tôi làm đây cho tôi ngủ suốt đời tôi không thức giậy, thì ông thành Long Vương nằm dưới lòng biển qua tới 4 vị Phật, Đức Phật đầu tiên là Kakusandha (Phật Cù Lưu Tôn), Đức Phật thứ hai là Konāgamana (Câu Na Hàm Mâu Ni),  Đức Phật thứ ba là Kassapa (Phật Ca Diếp)  Đức Phật thứ tư là Sakiyamuni (Phật Thích Ca Mâu Ni). Bốn vị Phật này ra giòng sông nguyện thì bát của các vị Phật rớt xuống ngay bên Long Vương, nghe tiếng bát rớt ông mở mắt và nói có một vị Phật ra đời, 3 cái bát đang ở kế bên bây giờ có một cái nữa rớt xuống ông nói có một vị Phật ra đời

Mình nói Vô Minh duyên Hành, từ đây vế sau mình Hành bởi Tương Ưng Trí.

 Mình học Liên Quan Tương Sinh, từ đây về sau mình làm hành động gì từ thân từ ngữ từ ý mình làm với Tương Ưng Trí không làm bởi Vô Minh.

Từ đây về sau thân hành, ngữ hành, ý hành mình không làm theo kiểu vô minh. Mình biết hết, biết nhân nào quả đó.

Khi thân, ngữ, ý mình làm phúc, phi phúc, bất động thì mình tìm ra được một là Tương Ưng Trí, hai là Vô Minh.

Khi quí Phật tử đi với một con người mà họ đầy dãy tham ái, họ muốn cái này, muốn cái kia, từ ý tới thân tới lời không ngừng trong tham vọng ham muốn của họ, thì mình biết họ đang trong trạng thái gì trong 8 bất tri.

Đi gặp một người mà họ sống đầy dãy tham ái trong sắc, thinh, khí, vị, xúc, trong các dục trần họ tham hết, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân họ không thu thúc, họ trôi lăn trong sự tha ái của họ.  Thì mình nói "nếu như bạn sống trong trạng thái đầy tham ái thì bạn sẽ gặp được cảnh khổ của bạn",  thì mình sẽ chỉ cho họ ở trong Bất tri Tập đế và họ sẽ đi tới Bất tri khổ đế

Minh nói: "Nếu anh tham ái nhiều anh sẽ gặp khổ nhiều."  Nếu tham ái nhiều thì gặp khổ nhiều, tham chừng nào thì gặp khổ chừng nấy, lòng tham không thể đáp ứng đủ, người ta nói túi tham không đáy là vậy.  Thì anh sẽ có khổ đế với tập đế mà anh đang nuôi dưỡng, anh đang sống trong Tập Đế này thì anh sẽ có Khổ Đế gắng liền theo đó.

Cũng như biết người có tánh sân nhiều mà mình khuyên giải mà họ không bớt thì người đó sẽ khổ. Tập Đế có tham, sân, si, thì mình chỉ cho người đó là anh sẽ khổ, vì vợ con anh em họ sợ họ sẽ sống xa anh, mình chỉ cho họ là họ đang sống trong tập đế.

 Nếu trong cái thân này hành sân, ngữ sân, ý sân thì là đang sống trong Tập Đế, và sẽ đi đến Khổ Đế. Mình chỉ cho họ thấy họ thiếu trí và thiếu niệm.

Người hành giả ngồi thiền mà họ phiền não, họ đang sân, họ buồn phiền đau khổ là họ đang thiếu niệm thiếu trí, họ phải xả thiền, là họ ở trạng thái Nhân đã qua, cái Quả hiện tại của họ đang thân hành, ý hành, trong bất động hành của một cái Quả hiện tại là cái khổ đau của họ đang hiện bày.

Bất Tri Diệt Đế là anh không biết một cái pháp gì hết, anh sống trong đời này anh không biết một pháp là có sự thức tĩnh, có sự giải thoát mà anh không tin, anh không biết tại vì anh không có trí, họ bác bỏ hết tất cả thì họ Bất Tri Diệt Đế. Nếu như họ không tin con đường giải thoát, hay không biết có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy là con đường cứu cánh đưa đến giải thoát thì là Bất Tri Đạo Đế. Mình nói tới họ thì họ bác bỏ thì họ đang trong ngữ hành trong phi phúc hành mà mình muốn chỉ về con đường Đạo Đế, thì mình chỉ con đường Đạo Đế cho họ.

Mà họ muốn nói nếu trong Bất Tri Đạo Đế họ đang có ngữ hành mà nó không có hoan hỉ, ngữ hành không tốt, ngữ hành của họ là thô ích ngữ hay là ly gián ngữ, hay là vọng ngữ, hay là hồ ngôn lộng ngữ thì mình đưa họ vô Bất Tri Đạo Đế, phải đưa họ vào phần Chánh Ngữ. 

Trong Chánh Ngữ có 3 là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng.  Đối với bậc Thánh thì nhất định đi chung.  Còn đối với phàm phu như mình là bất định đi riêng không nói đi chung được, Chánh Ngữ là Chánh Ngữ thôi chứ không liên quan Chánh Nghiệp Chánh Mạng.  Đối với bậc Thánh thì 3 cái Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng đi chung một lượt, không rời, không riêng, lời của quí Ngài nói ra là mạng của quí Ngài liền với nghiệp của Ngài, Bậc Thánh là vậy, còn lời nói của mình thì tách rời.

Nếu con người mà sống trong ngữ ác nghiệp, họ đang trong ngữ hành mà nó có 4 loại ngữ ác nghiệp thì quí Phật tử đưa họ vô trong phần Đạo Đế để hướng dẫn họ hành đạo để sửa ngữ ác hành của họ thì quí Phật tử phải nói qua phần Chánh Ngữ thì mới ra được.

Tất cả cái gì cũng giải đáp được hết trong thân, ngữ, ý mà họ làm trong Vô Minh thì mình gỡ ra được hết. Biết dùng pháp của mình gỡ cho người hay gỡ cho mình đều được hết.  

"Năng thuyết bất năng hành" mình nói hay nhưng mình không hành, thí dụ như mình khuyên người ta đạo đức mà mình làm chuyện phi đạo đức thì người ta không nghe lời khuyên của mình.

Thì mình phải cẩn thận, trước tiên ta phải sửa ta sau đó mới sửa người chứ mình sửa người ta mà mình không sửa mình thì không có giá trị, mình vẫn nằm trong Vô Minh duyên Hành của mình.

 Khi quí Phật tử nắm đủ chi pháp, đủ kiến thức của pháp thì sửa cho mình được và sửa cho người được, mà đúng lý chứ không phải làm suông hay làm ngang được.

Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, mình sửa cho mình thì đúng rồi, nhưng mình có nên sửa cho người không ?

HT trả lời: Ba điều:

1) Thứ nhất là mấy cô phải đầy đủ.

2) Thứ hai mình phải có đức

3) Thứ ba mình phải có trí.

Mấy cô phải cẩn thận, tất cả đều có nhân quả có nghiệp báo.  Chưa kể, nếu mà cô làm cái đó, cái ngữ hành cô nói ra là bởi Vô Minh là cô làm cái này với một cái tâm phiền não thì đó là phiền não luân.  Nếu cô làm với trạng thái quả báo vì hồi đó họ vay bây giờ họ phải trả thì cái này là Dị Thục Quả.

Thứ hai nữa, nếu mình làm cái này là oan trái thì là nghiệp báo, phiền não, dị thục quả.

Do đó, khi mình Vô Minh duyên Hành thì người ta nhìn vô anh đang làm nghiệp báo, anh làm dị thục quả, hay anh đang làm nghiệp báo, anh đang có cái đó, anh làm hành động đó, ý anh nghĩ cái đó, anh làm trong phiền não hay dị thục quả hay là quả báo hay nghiệp báo, thì nó ra được.

Thí dụ. khi người ta làm mình buồn đau, mình không biết cái đó là cái nghiệp của mình trong quá khứ mình đã vay bây giờ mình phải trả cho họ, mình vay của người ta bây giờ họ làm mình đau, rồi mình không biết mình lại nói với trạng thái phiền não : "Tại ông đó, tại bà đó, giờ tôi mới khổ", là mình nói trong trạng thái phiền não.

Nếu như mình nói : "Nếu như cái này tôi đã làm trong quá khứ, mà bây giờ ông làm tôi vậy đó, thôi tôi chịu tôi trả hết cho xong thì kiếp sau tôi không phải trả nữa", mình nói trong trạng thái Dị Thục Quả, tất cả đều trong Vô Minh, không có Tương Ưng Trí. 

Sư chưa nói tới 3 khía cạnh luân hồi. Một người mà tự kỷ ám thị, mặc cảm tự ti, tôi làm tôi chịu, cái đó là trạng thái phiền não, họ không có trí.

Ngay cả người tự kỷ ám thị, mặc cảm tự ti, họ nói những lời nói là ngữ hành phi phúc hành, họ ở trong phiền não luân hay trong dị thục quả luân hay trong nghiệp báo luân mình cũng nhìn ra được, chưa kể nói về Vô Minh duyên Hành. 

 "Thôi chị đừng nói vậy nữa, chị có biết quá khứ mình làm sao mà mình nói vậy". 

Thì đó là vô minh, không biết nhân đã qua, bây giờ mình nói như vậy là mình tạo ra cái nghiệp nữa rồi. Còn nếu như người kia mà nghe được thì họ lại kết oan trái với mình thì mình lại bị nữa.

Tất cả đều là Vô Minh duyên Hành, tốt hơn hết một là phải có Đại Thiện Tương Ưng Trí, hai là phải không tạo tác nữa. Mình phải học, hành, tìm ra một cái lý nào đó để mình giải quyết, chứ không có làm bằng sự bộc phát theo kiểu thói quen của mình, theo kiết sử của mình hay tập khí của mình.

Khi nói với trí thì mình không nói trong trạng thái phiền não, không trong nghiệp báo, không trong quả dị thục, người đó là người có trí. 

 Đức Phật Ngài nói pháp Ngài dạy chúng sanh đối tượng nào cũng vậy Ngài dùng trí chứ không nói trong phiền não, Ngài không nói trong nghiệp báo, Ngài không nói trong dị thục quả của Ngài.  Còn mình đây mình nói mình phải coi lại Đức Phật Ngài không có 3 cái đó. Pháp Ngài nói ra không phải là phiền não mà Ngài nói, không do quả báo mà Ngài nói, không phải nghiệp báo mà Ngài nói, Ngài nói pháp là nói với người trí, Ngài chỉ cho người ta. Thì cái đó mình không lọt vô Vô Minh duyên Hành, mình không lọt vô phi phúc hành, không lọt vô trạng thái phiền não luân, dị thục quả luân, hay nghiệp báo luân.

Một khi mở lời mình nói trí hay là mình nói trong vô minh, mình nói trong phiền não hay nói trong nghiệp báo, hay nói trong quả dị thục, mình phải xác định được điều đó. Nói trong ý, nói trong lời, nói trong hành, quí Phật tử phải xác định điều đó, mình học bữa nay mình biết rồi.

Sư mới nói 2 khoen đầu Vô Minh duyên Hành, mình học để mình kiểm lại mình thôi, chứ không có gì hết, rồi tự mình sửa chữa lại thêm cho mình.

 Thứ nhất, bây giờ là thân ngữ ý mình không có Vô Minh duyên Hành.   Thân, ngữ, ý mình không làm trong phiền não, không có hành động của nghiệp báo mình làm nói hay là quả dị thục mình hành mình nói.  Cho dù quí Phật tử nói "tôi chịu, tôi chấp nhận, tôi trả hết" đó là câu nói phi phúc hành, câu nói của Vô Minh duyên Hành, mình phải  Đại Thiện Tương Ưng Trí, mình quán xét lại pháp đó, chứ không nói trong Vô Minh duyên Hành.

Bữa nay mình thấy được mình chưa, mặc cảm không được, tự ti mặc cảm không được, mà trong phiền não mình nói cũng không được.

Pháp Hành cũng vậy, trong đời sống hàng ngày cũng vậy, mình có kiểm soát tâm thức của mình là điểm chánh.  

Do đó, Vô Minh duyên Hành này nó nằm ở đâu? 

-  Vô Minh duyên Hành này nằm ở trong Tâm Thức của mình, ở trong lộ trình tâm của mình, và chính cái đó mình mới kiểm soát Tâm thức mình đang trong Vô Minh nó ra Hành này chứ nó không trong đời sống của mình Vô Minh duyên Hành, không có, mà từng mỗi sát na tâm mình đang trong Vô Minh hay có Trí là ra cái đó, là nó nằm ở pháp này, nó nằm trong lộ trình tâm, nó trong tiến trình tâm thức của mình, ở trong trạng thái niệm và thiếu niệm, có trí và thiếu trí, phải kiểm soát từ đó mới ra được.

Như vậy thì Bất Tri Khổ Đế là Tâm mình ở trong trạng đó, Tâm thức mình đang ở trong đó, chứ không phải mình đang ở trong trạng thái Bất Tri Khổ Đế, cái Tâm Thức của mình, Bất Tri Tập Đế là tâm thức của mình, mình sửa là sửa từ Tâm chứ không phải sửa từ nơi thân, ngữ, ý, nên phải cẩn thận.

Thế nào là Vô Minh ? 

- Cái tâm anh Vô Minh chứ không phải là con người mình vô minh, con người mình chỉ là chế định thôi.

Nên cái khâu mà mình học từ Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc là tiến trình của Tâm Thức nó diễn tiến một loạt như vậy, nó nằm trong từng mỗi sát na tâm diễn tiến liên tục, quí Phật tử phân tích ra được là thấy được một chuỗi dài móc xích liên quan bởi Tâm Thức.

Tâm Thức vô minh nó làm Tâm Thức hành, 

Tâm Thức Hành làm cho Tâm Thức thích Danh Sắc.

Do đó, không có con người vô minh, chỉ có Tâm Thức vô minh.

Không có con người hành mà chỉ Tâm Thức hành.

 Cho dù mình đang nói là phúc hành, nhưng bởi vô minh thì nó không nằm trong tâm Đại Thiện. Cho dù mình làm phúc hành mà bởi vô minh thì nó không nằm trong Tâm Đại Thiện.

Cô phúc hành cô cho với tâm tham để được danh thì đó là Vô Minh duyên Phúc Hành.  

Nếu mà cô phúc hành vì sân mà cho thì là Tâm Sân duyên Phúc Hành.

Phúc Hành vì Si mà cho thì là Si Phúc Hành. 

Đứa bé ra để bát cho nhà Sư một trái chuối, hỏi nó biết không, nó không biết, mẹ kêu làm sao thì làm vậy, đó là tâm si, phi phúc hành chứ không phải tâm đại thiện.

Nên, khi nói tới Hành mà duyên bởi Vô Minh không có Tâm Đại Thiện, không có Tương Ưng Trí, nó chỉ là Thập Thiện thôi, tham sân si có đủ hết.

Vậy thì khi mình nhìn thấy thân ngữ ý của người mình phải hiểu cái tâm của họ.

Thứ hai, khi thấy thân, ngự, ý của mình thì mình phải để ý đến tâm của mình có kiểm soát hay không kiểm soát, có trí hay không có trí, thiện hay bất thiện.  Nhìn được mình, nhìn được người. 

 Nên Abidhamma hay chỗ này, học gì trong ta, học gì ngoài ta, và cái gì ta muốn thành đạt, nhìn tâm biết pháp, chứ mình không nói Vô Minh duyên Hành là nói suông theo kiểu con người, con người không có mà là do tâm của con người.

Người ta tạo ra, người ta làm ra, người ta nói, người ta hành động, người ta nói ra lời, ý người ta nghĩ suy, quí Phật tử bắt đầu biết nhìn chưa ?

Một pháp Vô Minh duyên Hành, anh nói là phiền não, anh nói là nghiệp báo, anh nói là quả báo, mình phải nhận định được, mình nói thiện, đại thiện hay trong tham, sân, si, trong bất thiện mình phải biết, là Tâm chứ không phải là Pháp, Tâm hiện bày Pháp đó ra.

Từ đây về sau mấy cô không có Vô Minh duyên Hành, chỉ có Đại Thiện Tương Ưng Trí thôi, thân, ngữ, ý lúc nào cũng Đại Thiện Tương Ưng Trí, không có tham sân si, không có trạng thái vô minh là ta nói về kinh văn, bất tri này bất tri kia, như ta nói Abidhamma thì vô minh nằm ở đây là si mà nó không một mình được, khi cô đang ở trong vô minh là có 4 pháp là có luôn 4 pháp này; si, vô tàm, vô quí, trạo cử.

Thì khi bắt vô nó, khi anh nói, anh hành động, ý nghĩ suy, anh có trạo cử không, anh có vô tàm vô quí không, ra được chưa ? nó đi luôn luôn, nó là biến hành bất thiện, ra được chưa ?

Khi anh vô minh anh làm ra được thân hành, ngữ hành, ý hành thì anh có vô minh anh có vô tàm không, anh có vô quí không, có trạo cử, có si phóng dật không ? ra được chưa, chính xác chi pháp, chứ nói vô minh là tâm si thì không được.

Si không có một mình. Si đi với vô tàm, vô quí, và trạo cử.

Như vậy thì khi thân anh hành, ngữ anh hành, ý anh hành trong cái vô minh thì anh đang có vô tàm vô quí, anh đang có phóng dật. Người có trí không có phóng dật, người có trí biết tàm quí, người ta không trong trạng thái khinh suất, thấy cái giá trị chỗ đó chưa.

Cái giá trị của Đại Thiện Tương Ưng Trí rất là hữu ích, rất là giá trị.  Còn mình không dùng Đại Thiện Tương Ưng Trí mà không biết sống trong Đại Thiện Tương Ưng Trí, mình tạo tác một cách khinh xuất mình tạo tác với tập khí là mình ở trong bọn si phần, anh đang vô minh, anh đang vô tàm vô quí, anh đang vô minh anh trong trạng thái phóng dật.

Khi mình vô tàm vô quí là mình không biết thương mình, người có tàm có quí là người biết thương mình, biết sửa mình, không làm sai lầm, thì mình có tàm có quí.  Còn người không biết thương mình thì coi như họ muốn làm sao thì làm, họ phá hủy luôn, là người vô tàm vô quí. Mình sẽ nói bạn không biết bạn, mình nói nhẹ như vậy người ta sẽ không oan trái với mình, chứ mình nói anh vô tàm vô qui phóng dật thì họ sẽ oan trái với mình.

Tại vì mình không nắm chi pháp, kinh văn không có nói.

Si thuộc si phần chứ không đi một mình.  Mà khi đang si tức là không biết thương mình, mình vô tàm vô quí là mình không biết thương mình.

Thì đó là mình có giá trị là có trí, nếu mình mất giá trị của mình coi như mình hỏng hết tất cả.

Nhìn người ta có lỗi, người ta sai lầm, họ đang tạo tác những điều không có ích thì mình nhìn họ mình phải biết mình, chứ không phải mình chỉ nói người ta, mà mình cũng phải có tàm có quí, chứ mình bắt lỗi người ta mình chê người ta là mình cũng vô tàm vô quí nữa, mình cũng ở trạng thái ngữ hành phi phúc hành, cũng bởi vô minh thôi.

Vô Minh thuộc bọn si phần, xưa tới nay mình cứ nghe nói vô minh là tâm sở si.  Nhưng si phần là chính chứ không phải một mình nó là tâm sở si không, nó phải có bọn vô tàm vô quí và phóng dật, chính vì phóng dật mình mới si, mình vô tàm vô quí mình mới si.  Vô tàm vô quí luôn luôn đi đôi, nhưng mà tàm và quí nó có đi riêng thì nó cũng có bộ chắc riêng của nó, do đó 2 cái đó mình phải khai thác và mình phải biết, vô tàm không khi nào nó đi một mình, hễ vô tàm thì có vô quí, mà vô quí thì phải có vô tàm.

Chức năng vô tàm là không hổ thẹn việc xấu ác.

Chức năng vô quí là không ghê sợ việc xấu ác.

và không biết quả báo của việc xấu ác.

Cái đó mới là có giá trị khi biết ghê sợ việc xấu ác và biết sợ hãi cái quả báo của việc xấu ác, đó gọi là tàm và quí.

Cái đó là Vô Minh duyên Hành mình đi suông và mình đã phân tích ra.

Bây giờ mình đi ngược lại. 

Hành duyên Vô Minh

 Nhìn thấy người ta hành động hay mình đang hành động, Hành duyên cho Vô Minh.

Cho thí dụ loại Hành duyên Vô Minh.

Hồi xưa Đức Phật Ngài nói những người ngoại đạo trong đám luận sư ngoại đạo Nigantha Nàtaputta, Purana Kassapa, Makkhali-Gosalà, Ajita Kesa-Kumbala, Pakudha Kàtyayana, Sanjaya Belatthaputta, họ là người Hành duyên Vô Minh, họ trong cái khổ hạnh của họ, họ trong trạng thái khổ hành giả của họ mà họ làm cái hành này duyên vô minh, nó sẽ tạo ra cái vô minh, và cái vô minh đó nó sẽ trở thành luân hồi của một cái lậu hoặc.  Nên Ngài nhìn thấy những người đang hành này sẽ dấn dắt đến trạng thái vô minh.  

Đó là Hành duyên Vô Minh. Với người không biết họ cứ làm, thí dụ như là nhịn ăn, nhịn uống, rồi đói khát, không tắm, họ ép xác, họ đang hành cái đó, nhưng hành này không phải trí, hành này tạo ra bởi vô minh.

Đức Phật nói những người lục sư ngoại đạo đang hành nhưng sẽ làm cho họ vô minh.

Thì khi họ hành là nhân, như vậy họ sẽ trở thành cái quả ở trong 8 bất tri.

Nếu anh hành ép xác khổ hạnh, bỏ ăn uống, đứng một chân, dang 2 tay, không tắm gội, thì hành động đó với trạng thái này thì sẽ đưa đến Khổ Đế, Tập Đế, đưa đến 8 bất tri. Đó là Hành duyên Vô Minh.

Đó là Đức Phật nói về lục sư ngoại đạo là họ đang Hành duyên Vô Minh.  Nhân nào sẽ dẫn họ tới Vô Minh đó, Hành của họ sẽ dẫn tới Vô Minh đó.

Rồi bây giờ, có khi nào hành động của mình, thân hành, ngữ hành, ý hành dẫn tới vô minh không ? Mình nghe pháp mình phải nghiệm lên mình. Có khi nào cái hành của mấy cô dẫn đến Vô Minh không ? Có khi nào mình vô minh duyên hành hay ngược lại hành duyên vô minh không ?

Mình nhìn người ta, anh hành động cái đó nó dẫn tới vô minh, không có lợi ích gì đâu, hành động đó là dẫn đến vô minh, hay từ vô minh duyên hành, chứ không có từ hành dẫn đến vô minh.

Thiền sinh hỏi: Khi mà Hành dẫn đến Vô Minh thì trong quá khứ nó đã có cái Vô Minh móc xích với Hành rồi bây giờ cái Hành này hành trong Vô Minh.

HT trả lời: Không có, đó là tại vì cô biết đạo, cô biết giáo lý Đức Phật, biết lời dạy Đức Phật cô mới nói Hành này dẫn tới Vô Minh là do từ Vô Minh dẫn qua Hành, nhưng mà có những người ta không biết gì. 

Để Sư dẫn chứng thí dụ: Cunda người đồ tể, hành động của người đó là chỉ biết cho heo ăn nuôi heo cho lớn, hành động đó dẫn đến Vô Minh, đó không phải là từ Vô Minh dẫn đến Hành,  mà từ Hành dẫn đến Vô Minh.

 Nếu nói người không biết đạo thì họ hành động này hoàn toàn những hành động thân ngữ ý của họ chỉ dẫn tới cuối cùng họ phải chịu sự Vô Minh. Hai nữa, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, ngũ giới, bát giới mà mình không giữ thì hành động này dẫn tới Vô Minh là đọa địa ngục, chịu khổ đau, sinh lại làm thú chịu khổ đau trong cõi thú, chịu khổ đau trong ngã quỉ, chịu khổ đau trong cõi súc sinh, đó là Hành dẫn tới Vô Minh.

 Chính những cái đó mình không nhìn ra mình  không thấy pháp, do đó mình không hiểu mình ở đâu, có khi mình làm hành động này do Vô Minh làm là Nhân, và có khi mình làm mình tạo ra cái quả, phải cẩn thận.

Có khi mình hành động này là do Vô Minh mình mới làm, mình không biết mình vẫn làm, giống như người ta nói điếc không sợ súng.  Rồi bây giờ mình không điếc mà vẫn không sợ súng, thì hành động đó sẽ dẫn tới Vô Minh.

Vậy thì khi mình nói mình có chiều suôi và có chiều ngược lại hay là mình có chiều suôi thôi không có chiều ngược lại mình không nghiệm ra.

Tại cái tâm, nếu không kiểm soát được Tâm Thức mình có cả 2 chiều, Vô Minh dẫn đến Hành, và Hành cũng dẫn đến Vô Minh, mình có 2 chiều bởi không kiểm soát được Tâm Thức.

Đức Phật Ngài nói người không giữ giới mà hành động trong tạo tác giới phạm giới hay là phá giới thì họ đang làm trong Vô Minh, hành động đó là Nhân dẫn tới Vô Minh.

Người làm với hành động này mà trạng thái bởi vô minh là Nhân và Vô Minh dẫn tới Quả là trạng thái gì mình không biết. Mình thiếu trí, mình thiếu Niệm, mình tạo ra thì mình ở trong 2 cái đó thì có khi mình Vô Minh làm duyên cho Hành, có khi Vô Minh làm Nhân cho Hành là Quả, có khi Nhân là Hành tạo Quả là Vô Minh, có khi Hành là Nhân tạo ra Quả là Vô Minh.

Nếu từ Vô Minh duyên Hành, là mình đi xuôi, thì trạng thái đó thiếu trí thiếu Niệm, và nếu từ Hành qua Vô Minh là thiếu trí thiếu Niệm, nhưng mình phải biết mình ở chỗ nào.

Nếu Vô Minh duyên cho Hành, Vô Minh là Nhân, Hành là Quả, thì cái Quả đó mấy cô đã chọn. 

Còn nếu như Hành là Nhân mà nó sẽ trổ quả là Vô Minh thì cái Vô Minh nó sẽ trổ.

* Nếu ---> Hành là Quả đã trổ do bởi Vô Minh -- Thì cái này là Nhân

                 

* Nếu ---> Hành là Nhân tạo ra Vô Minh -- cái này là Quả sẽ trổ


Không biết mình tạo, rồi trong khi tạo vì không biết dẫn tới trạng thái Vô Minh.

Ông Cunda vì vô minh nên mới hành động giết heo mà hành động giết heo thì ông sẽ đọa lại trong vô minh.

Do đó, hành động đang trổ là cái quả bởi do vô minh là nhân, mà khi hành động trổ ra quả vô minh thì cái vô minh sẽ trổ thành quả thì cái đó sẽ gặt hái.

 Vì không biết mà hành động, hay mình biết mình hành động để mình tạo tác ra một cách vô minh, thì cái nào sợ.

Thí dụ, Bồ Tát trong một kiếp quá khứ là trạng thái Ngài đi săn, Ngài bắn con nai nhưng mũi tên không bắn vô con nai mà mũi tên đó bắn trúng cái bông hoa, trong cái bông hoa đó có con sâu, thì con sâu chết, nếu nói về nghiệp thì Ngài không có tác ý bắn con sâu vì Ngài không biết trong cái bông hoa có con sâu.  Rồi luân hồi trở lại con sâu trở thành vị vua đi săn,  ông vua đó bắn Ngài chết Ngài.

Thì Ngài không biết Ngài bắn, mà trạng thái Ngài bắn như vậy Ngài tạo tác ra Ngài không biết là cái quả nó sẽ trổ sanh là cái vô minh bị gặt hái cái quả này.

1. Mình không biết mình hành,

2.  giờ mình biết rồi mà vẫn hành sẽ dẫn tới trạng thái vô minh.

Nếu đứng về luật pháp thì cái nào nặng cái nào nhẹ ?

Không biết mà làm, thí dụ, mới qua nước Mỹ được người ta rủ đi câu cá, đi mua cần câu để đi câu, nhưng mình không biết gì hết, câu được con nào cũng bỏ vào thùng, rồi mình bị người ta bắt. 

người ta hỏi: anh biết luật không ?

 trả lời là không biết vì mới qua được người ta rủ đi câu cá.

Anh phải biết câu cá có luật, cá lớn cỡ nào mới được câu, con nào không lớn đúng luật mình phải thả nó ra chứ không bắt hết cỡ nào cũng bắt là phạm luật.

Đó là không biết mà vẫn làm, vẫn đi câu.

Rồi người ta dạy mình rồi mình biết câu cá lớn cỡ nào mới được câu, mình biết hết luật rồi, nhưng khi câu được con cá lên vì tham, vì sân, vì si mình hốt hết vô, đó là Hành duyên Vô Minh.

1 là không biết luật chạy xe bị phạt, mà biết luật mà chạy xe rồi phạm luật bị phạt là 2

Đức Phật Ngài nói có 2 điều vị Tỳ Khưu phạm luật mà không tội: 

 1. Thứ nhất là vị Tỳ Khưu đó bị điên, mất trí, ông phạm luật không bị tội, không bắt lỗi người điên.

2. Thứ hai, vị Tỳ Khưu phạm luật mà không phạm tội, là không có học, không biết, do đó ông phạm luật.  Điều luật này ông có biết không mà ông phạm, dạ con chưa có học điều này, lần đầu tiên con mới biết, thì vị Tỳ Khưu đó được tha.

Không biết mà mình sát sinh là Vô Minh duyên Hành.

Biết rồi mà vẫn sát sinh thì là Hành duyên Vô Minh.

 Do đó, mới thấy cái giá trị của Đại Thiện Tương Ưng Trí.  Vô Minh duyên Hành cũng chết, mà Hành duyên Vô Minh cũng chết.

Đức Phật Ngài thuyết Liên Quan Tương Sinh 4 cách và có tác ý hết,  Sư mới nói thôi để mình nhận định về mình thôi, mình biết mình thôi, tức là chiều nào cũng vậy, nếu thiếu Đại Thiện Tương Ưng Trí, chiều Vô Minh duyên Hành cũng chết, mà chiều Hành duyên Vô Minh cũng chết, cái đó là chỉ nói thôi, còn cái tác ý mà Đức Phật Ngài dạy suôi hay ngược lại Ngài có tác ý hết, mình sẽ học tiếp./.

------------------------------------------------


Vô Minh Avijjā có 8, còn gọi là bát bất tri là 8 điều mình không biết. Là bốn bất tri Tứ Đế + với bốn bất tri quá khứ, hiện tại, tương lai, và liên quan tương sinh:

1. Bất tri khổ (Dukkhe aññāṇaṃ), không thông hiểu về sự khổ ngũ thủ uẩn.

2. Bất tri khổ tập (Dukkhasamudaye aññāṇaṃ), không thông hiểu tập khởi của khổ.

3. Bất tri khổ diệt (Dukkhanirodhe aññāṇaṃ), không thông hiểu sự diệt khổ.

4. Bất tri đạo lộ khổ diệt (Dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya aññāṇaṃ), không thông hiểu con đường đưa đến diệt khổ.

5. Bất tri quá khứ (Pubbante aññāṇaṃ), không biết rằng mình đã từng hiện hữu ở quá khứ, có kiếp sống quá khứ.

6. Bất tri vị lai (Aparante aññāṇaṃ), không biết rằng mình sẽ có mặt trong tương lai, có kiếp sống sau.

7. Bất tri quá khứ vị lai (Pubbantāparante aññā-ṇaṃ), không biết có đời sống quá khứ và vị lai, tức là đời sống vui khổ hiện tại bị chi phối bởi quá khứ, và sở hành hiện tại ảnh hưởng vị lai.

8. Bất tri pháp liên quan tương sinh (Idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu aññāṇaṃ), không biết duyên khởi các pháp, sanh do nhân quả liên quan, như do vô minh có hành, do hành có thức v.v...


02 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh- - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024

  02 Paṭiccasamuppāda - Liên Quan Tương Sinh-  - HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 11, 2024 Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt...